British Journal of Sports Medicine

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
Non-random fluctuations in power output during self-paced exercise
British Journal of Sports Medicine - Tập 40 Số 11 - Trang 912-917 - 2006
Ross Tucker, Andre Bester, Estelle V. Lambert, Timothy D. Noakes, Christopher L. Vaughan, A. St Clair Gibson

Objectives:To analyse the power output measured during a self-paced 20-km cycling time trial, during which power output was free to vary, in order to assess the level and characteristics of the variability in power output that occurred during the exercise bout.

Methods:Eleven well-trained cyclists performed a 20-km cycling time trial, during which power output was sampled every 200 m. Power spectrum analysis was performed on the power output data, and a fractal dimension was calculated for each trial using the Higuchi method.

Results:In all subjects, power output was maintained throughout the trial until the final kilometre, when it increased significantly, indicating the presence of a global pacing strategy. The power spectrum revealed the presence of 1/f-like scaling of power output and multiple frequency peaks during each trial, with the values of the frequency peaks changing over the course of the trial. The fractal dimension (D-score) was similar for all subjects over the 20-km trial and ranged between 1.5 and 1.9.

Conclusions:The presence of an end spurt in all subjects, 1/f-like scaling and multiple frequency peaks in the power output data indicate that the measured oscillations in power output during cycling exercise activity may not be system noise, but may rather be associated with system control mechanisms that are similar in different individuals.

Step training improves reaction time, gait and balance and reduces falls in older people: a systematic review and meta-analysis
British Journal of Sports Medicine - Tập 51 Số 7 - Trang 586-593 - 2017
Yoshiro Okubo, Daniel Schoene, Stephen R. Lord
Objective

To examine the effects of stepping interventions on fall risk factors and fall incidence in older people.

Data source

Electronic databases (PubMed, EMBASE, CINAHL, Cochrane, CENTRAL) and reference lists of included articles from inception to March 2015.

Study selection

Randomised (RCT) or clinical controlled trials (CCT) of volitional and reactive stepping interventions that included older (minimum age 60) people providing data on falls or fall risk factors.

Results

Meta-analyses of seven RCTs (n=660) showed that the stepping interventions significantly reduced the rate of falls (rate ratio=0.48, 95% CI 0.36 to 0.65, p<0.0001, I2=0%) and the proportion of fallers (risk ratio=0.51, 95% CI 0.38 to 0.68, p<0.0001, I2=0%). Subgroup analyses stratified by reactive and volitional stepping interventions revealed a similar efficacy for rate of falls and proportion of fallers. A meta-analysis of two RCTs (n=62) showed that stepping interventions significantly reduced laboratory-induced falls, and meta-analysis findings of up to five RCTs and CCTs (n=36–416) revealed that stepping interventions significantly improved simple and choice stepping reaction time, single leg stance, timed up and go performance (p<0.05), but not measures of strength.

Conclusions

The findings indicate that both reactive and volitional stepping interventions reduce falls among older adults by approximately 50%. This clinically significant reduction may be due to improvements in reaction time, gait, balance and balance recovery but not in strength. Further high-quality studies aimed at maximising the effectiveness and feasibility of stepping interventions are required.

Systematic reviews registration number

CRD42015017357.

Soft tissue injury in extreme rock climbers.
British Journal of Sports Medicine - Tập 22 Số 4 - Trang 145-147 - 1988
Steve Bollen

Rock climbing is an increasingly popular sport. Its standards of difficulty have undergone a revolution in the past ten years. Regular training is now almost mandatory for the aspiring climber, but little has been published about the patterns of soft tissue injury to which climbers are susceptible. This paper aims to identify some of the common injuries that may be encountered, some of which do not appear to be associated with other sports.

Cobalt chloride administration in athletes: a new perspective in blood doping?
British Journal of Sports Medicine - Tập 39 Số 11 - Trang 872-873 - 2005
Giuseppe Lippi, Massimo Franchini, Gian Cesare Guidi

Blood doping is an illegal and unfair way of enhancing athletic performance by increasing the oxygen carrying capacity of the blood. Currently used methods usually involve stimulation of erythropoiesis. Gene therapy targeting the hypoxia inducible factor pathway may be an attractive alternative to traditional blood doping techniques. Hypoxia activates a large number of genes with essential roles in cell and tissue adaptation to low oxygen. Cobalt chloride is a well established chemical inducer of hypoxia-like responses such as erythropoiesis. Cobalt supplementation is not banned and therefore would not be detected by current anti-doping testing. Although there is as yet no direct or anecdotal evidence of cobalt chloride administration to athletes, its use should be warned against as being not only unfair but potentially dangerous.

The oxygen uptake - work-output relationship of runners during graded cycling exercise: sprinters vs. endurance runners.
British Journal of Sports Medicine - Tập 14 Số 4 - Trang 204-209 - 1980
Kari Niemelä, I. Palatsi, Juha T. Takkunen

In order to study oxygen consumption (VO2) for a given work load at the exhaustive level of a graded cycling exercise in well-trained runners, a progressive cycle ergometer exercise test was performed on 9 sprinters and 12 endurance runners, all in good national standing; 12 sedentary men served as control subjects. The relationship between VO2 and work-output appeared to be linear in most of the subjects, but a plateau phenomenon was observed in two sprinters and two endurance runners. An upwards curvilinear increase in VO2 was noticed during the last two minutes of exercise in four endurance runners, but not in any of the sprinters. The four endurance runners with this unexpected increase in VO2 had a significantly higher (p < .01) "peak VO2" (mean = 75.3 ml.kg.-1.min.-1) than the rest of the endurance runners (mean = 55.1), and a significantly higher (p < .001) peak VO2 than the sprinters (mean = 46.0). It is concluded that the plateau phenomenon appears in runners during graded cycle ergometry, though rather seldom. It is less clear if the endurance runners showing the upwards curvilinear increase in VO2 possess a better aerobic performance capacity towards the end of progressive exercise. Nevertheless, the linear relationship between VO2 and work load does not appear to be the only one observed in runners during graded exercise.

Tóm tắt và tuyên bố đồng thuận của Hội nghị Quốc tế lần thứ 2 về Chấn thương não do va chạm trong Thể thao, Praha 2004 Dịch bởi AI
British Journal of Sports Medicine - Tập 39 Số suppl 1 - Trang i78-i86 - 2005
Paul McCrory, K Johnston, Willem Meeuwisse, M Aubry, Robert C. Cantu, Jiří Dvořák, Toni Graf-Baumann, James P. Kelly, Melanie Lovell, Patrick Schamasch

Vào tháng 11 năm 2001, Hội nghị Quốc tế lần thứ nhất về Chấn thương não do va chạm trong Thể thao đã được tổ chức tại Vienna, Áo nhằm đưa ra các khuyến nghị để cải thiện sự an toàn và sức khỏe cho các vận động viên bị chấn thương não do va chạm trong môn khúc côn cầu, bóng đá (soccer) và các môn thể thao khác. Hội nghị Quốc tế lần thứ hai về Chấn thương não do va chạm trong Thể thao được tổ chức bởi cùng một nhóm và diễn ra tại Praha, Cộng hòa Séc vào tháng 11 năm 2004. Hội nghị này đã dẫn đến việc sửa đổi và cập nhật các khuyến nghị đồng thuận tại Vienna, được trình bày tại đây.

Can thiệp thể dục cho chức năng nhận thức ở người lớn trên 50 tuổi: một đánh giá hệ thống với phân tích tổng hợp Dịch bởi AI
British Journal of Sports Medicine - Tập 52 Số 3 - Trang 154-160 - 2018
Joseph M. Northey, Nicolas Cherbuin, Kate L. Pumpa, Disa J. Smee, Ben Rattray
Thông tin nền

Tập thể dục được xem là một can thiệp đầy hứa hẹn để ngăn ngừa hoặc trì hoãn sự suy giảm nhận thức ở những cá nhân trên 50 tuổi, tuy nhiên, bằng chứng từ các đánh giá hiện tại không đầy đủ conclusive.

Mục tiêu

Để xác định liệu việc tập thể dục có hiệu quả trong việc cải thiện chức năng nhận thức ở nhóm dân số này hay không.

Thiết kế

Đánh giá có hệ thống với phân tích tổng hợp đa cấp.

Nguồn dữ liệu

Các cơ sở dữ liệu điện tử Medline (PubMed), EMBASE (Scopus), PsychINFO và CENTRAL (Cochrane) từ khi thành lập đến tháng 11 năm 2016.

Tiêu chí đủ điều kiện

Các thử nghiệm kiểm soát ngẫu nhiên về các can thiệp thể dục ở người lớn sống trong cộng đồng trên 50 tuổi, với chỉ số kết quả là chức năng nhận thức.

Kết quả

Tìm kiếm đã trả về 12.820 hồ sơ, trong đó 39 nghiên cứu đã được đưa vào đánh giá hệ thống. Phân tích 333 kích thước hiệu ứng phụ thuộc từ 36 nghiên cứu cho thấy rằng việc tập thể dục cải thiện chức năng nhận thức (0.29; 95% CI 0.17 đến 0.41; p<0.01). Các can thiệp thể dục nhịp tim, đào tạo sức đề kháng, đào tạo đa thành phần và thái cực quyền đều có ước tính điểm đáng kể. Khi được xem xét đơn thuốc thể dục, thời gian 45–60 phút mỗi buổi và ít nhất là mức độ vừa phải, đều có liên quan đến những lợi ích cho nhận thức. Kết quả của phân tích tổng hợp cho thấy sự nhất quán và độc lập với lĩnh vực nhận thức được thử nghiệm hoặc tình trạng nhận thức của các cá nhân tham gia nghiên cứu.

Kết luận

Tập thể dục cải thiện chức năng nhận thức ở những người trên 50 tuổi, không phụ thuộc vào tình trạng nhận thức của người tham gia. Để cải thiện chức năng nhận thức, phân tích tổng hợp này cung cấp cho các bác sĩ lâm sàng bằng chứng để khuyến cáo rằng bệnh nhân nên thực hiện cả bài tập aerobic và sức đề kháng với ít nhất cường độ vừa phải vào càng nhiều ngày trong tuần càng tốt, phù hợp với các hướng dẫn tập thể dục hiện tại.

Nghịch lý phòng ngừa chấn thương trong tập luyện: liệu các vận động viên có nên tập luyện thông minhkhắc nghiệt hơn? Dịch bởi AI
British Journal of Sports Medicine - Tập 50 Số 5 - Trang 273-280 - 2016
Tim J. Gabbett
Thông tin nền

Có một tín điều cho rằng khối lượng tập luyện cao hơn sẽ dẫn đến tỷ lệ chấn thương cao hơn. Tuy nhiên, cũng có bằng chứng cho thấy việc tập luyện có tác dụng bảo vệ chống lại chấn thương. Ví dụ, các vận động viên thể thao đồng đội đã thực hiện hơn 18 tuần tập luyện trước khi bị chấn thương ban đầu có nguy cơ thấp hơn trong việc gặp chấn thương tiếp theo, trong khi khối lượng tập luyện mãn tính cao đã được chứng minh là giảm nguy cơ chấn thương. Thứ hai, trong một loạt môn thể thao, các phẩm chất thể chất phát triển tốt liên quan đến nguy cơ chấn thương thấp hơn. Rõ ràng, để các vận động viên phát triển các khả năng thể chất cần thiết để cung cấp tác dụng bảo vệ chống lại chấn thương, họ phải chuẩn bị để tập luyện chăm chỉ. Cuối cùng, cũng có bằng chứng rằng việc tập luyện không đủ có thể làm gia tăng nguy cơ chấn thương. Tập hợp lại, những kết quả này nhấn mạnh rằng việc giảm khối lượng công việc có thể không phải luôn là cách tiếp cận tốt nhất để bảo vệ chống lại chấn thương.

Luận điểm chính

Bài báo này mô tả mô hình ‘Nghịch lý phòng ngừa chấn thương trong tập luyện’; một hiện tượng mà các vận động viên quen với khối lượng tập luyện cao lại gặp phải ít hơn các chấn thương so với các vận động viên tập luyện với khối lượng thấp hơn. Mô hình dựa trên bằng chứng cho thấy các chấn thương không tiếp xúc không phải do việc tập luyện tự thân , mà nhiều khả năng là do một chương trình tập luyện không phù hợp. Sự gia tăng khối lượng tập luyện quá mức và nhanh chóng có khả năng dẫn đến một tỷ lệ lớn các chấn thương không tiếp xúc, tổn thương mô mềm. Nếu khối lượng tập luyện là một yếu tố quyết định quan trọng của chấn thương, nó phải được đo đạc chính xác lên đến hai lần mỗi ngày và trong khoảng thời gian từ tuần này đến tháng khác (một mùa giải). Bài báo này đề xuất các cách theo dõi khối lượng tập luyện (‘nội bộ’ và ‘ngoại bộ’) và gợi ý việc ghi lại cả khối lượng tập luyện gần đây (‘cấp tính’) và khối lượng tập luyện trung bình (‘mãn tính’) để có thể phản ánh đúng gánh nặng tập luyện của người chơi. Tôi mô tả biến số quan trọng—tỷ lệ khối lượng cấp tính:mãn tính—như là một dự đoán thực tiễn tốt nhất của các chấn thương liên quan đến tập luyện. Điều này cung cấp cơ sở cho các can thiệp nhằm giảm nguy cơ của người chơi, và do đó, giảm thời gian bị chấn thương.

Tóm tắt

Việc lập kế hoạch và chỉ định khối lượng tập luyện cao một cách phù hợp nên cải thiện thể lực của các cầu thủ, và từ đó có thể bảo vệ chống lại chấn thương, cuối cùng dẫn đến (1) sức mạnh thể chất lớn hơn và khả năng phục hồi trong thi đấu, và (2) một tỷ lệ lớn hơn trong đội hình có sẵn cho việc lựa chọn mỗi tuần.

Hiểu về cơ chế gây chấn thương: một thành phần then chốt trong việc phòng ngừa chấn thương thể thao Dịch bởi AI
British Journal of Sports Medicine - Tập 39 Số 6 - Trang 324-329 - 2005
Roald Bahr, Tron Krosshaug

Các chấn thương dây chằng chéo trước (ACL) đang trở thành nguyên nhân đáng lo ngại, vì những chấn thương này có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho vận động viên với nguy cơ cao bị thoái hóa khớp sớm. Bằng cách sử dụng các chương trình đào tạo cụ thể, có thể hạn chế tỷ lệ chấn thương đầu gối và mắt cá chân. Tuy nhiên, chưa biết được các thành phần nào trong chương trình là chìa khóa để ngăn ngừa chấn thương đầu gối và mắt cá chân hoặc cách mà các bài tập hoạt động để giảm nguy cơ chấn thương. Khả năng thiết kế các chương trình phòng ngừa cụ thể của chúng ta, cho dù thông qua đào tạo hay các biện pháp phòng ngừa khác, hiện đang bị hạn chế bởi sự hiểu biết không đầy đủ về nguyên nhân gây chấn thương. Một cách tiếp cận đa yếu tố nên được sử dụng để xem xét tất cả các yếu tố liên quan - đó là, các yếu tố nguy cơ bên trong và bên ngoài cũng như sự kiện khởi phát (cơ chế chấn thương). Mặc dù các mô hình như vậy đã được trình bày trước đây, chúng tôi nhấn mạnh sự cần thiết phải sử dụng một mô hình toàn diện, trong đó xem xét các sự kiện dẫn đến tình huống chấn thương (tình huống thi đấu, hành vi của cầu thủ và đối thủ), cũng như bao gồm mô tả về cơ học toàn thân và khớp tại thời điểm xảy ra chấn thương.

#chấn thương thể thao #dây chằng chéo trước #phòng ngừa chấn thương #cơ chế chấn thương #cơ học khớp
Sự tương quan mạnh giữa sức mạnh tối đa trong động tác ngồi xổm và hiệu suất chạy nước rút cũng như chiều cao nhảy thẳng trong các cầu thủ bóng đá elite: Hình 1 Dịch bởi AI
British Journal of Sports Medicine - Tập 38 Số 3 - Trang 285-288 - 2004
Ulrik Wisløff, Carlo Castagna, Jan Helgerud, Rhys M. Jones, Jan Hoff

Đặt vấn đề:Sức mạnh ở mức cao là điều không thể thiếu trong chơi bóng đá elite, nhưng mối quan hệ giữa sức mạnh tối đa và hiệu suất chạy nước rút, nhảy đã chưa được nghiên cứu một cách tường tận.

Mục tiêu:Xác định xem sức mạnh tối đa có tương quan với hiệu suất chạy nước rút và chiều cao nhảy thẳng ở các cầu thủ bóng đá nam cấp độ elite.

Phương pháp:Mười bảy cầu thủ bóng đá nam quốc tế (tuổi trung bình (SD) 25,8 (2,9) năm, chiều cao 177,3 (4,1) cm, cân nặng 76,5 (7,6) kg, và khả năng hấp thụ oxy tối đa 65,7 (4,3) ml/kg/phút) đã được kiểm tra sức mạnh tối đa trong động tác ngồi xổm nửa và khả năng chạy nước rút (0–30 m và chạy nước rút 10 m hình chữ U) cũng như chiều cao nhảy thẳng.

#sức mạnh tối đa #hiệu suất chạy nước rút #chiều cao nhảy #cầu thủ bóng đá elite
Tổng số: 149   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10