BJU International
Công bố khoa học tiêu biểu
* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo
Đánh giá giá trị của hệ thống điểm Prostate Imaging Reporting and Data System (PI-RADS) cho khảo sát hình ảnh cộng hưởng từ đa thông số (mpMRI) tuyến tiền liệt nhằm phát hiện ung thư tuyến tiền liệt, và các thông số cổ điển như mức độ kháng nguyên tuyến tiền liệt đặc hiệu (PSA), thể tích tuyến tiền liệt và mật độ PSA, để dự đoán kết quả sinh thiết ở bệnh nhân nghi ngờ ung thư tuyến tiền liệt chưa từng sinh thiết.
Phân tích hồi cứu các bệnh nhân thực hiện mpMRI tại bệnh viện chúng tôi và sinh thiết tuyến tiền liệt lần đầu từ tháng 7/2010 đến tháng 4/2014. Sinh thiết tuyến tiền liệt được thực hiện qua ngã tầng sinh môn dưới hướng dẫn siêu âm qua trực tràng. Tổng cộng, 14 mẫu sinh thiết được lấy một cách hệ thống ở tất cả các bệnh nhân. Thêm hai mẫu sinh thiết mục tiêu bằng cách hợp nhất nhận thức được thêm vào mỗi tổn thương ở bệnh nhân có tổn thương nghi ngờ hoặc không rõ ràng trên mpMRI. Sử dụng hệ thống điểm PI-RADS phiên bản 2.0 để mô tả các phát hiện trên MRI. Phân tích đơn biến và đa biến được thực hiện để xác định các yếu tố dự đoán có ý nghĩa của ung thư tuyến tiền liệt và ung thư tuyến tiền liệt lâm sàng có ý nghĩa.
Tổng cộng, 288 bệnh nhân được phân tích. Tuổi trung vị của bệnh nhân, mức độ PSA, thể tích tuyến tiền liệt và mật độ PSA lần lượt là 69 tuổi, 7,5 ng/mL, 28,7 mL, và 0,26 ng/mL/mL. Kết quả sinh thiết cho thấy các dạng lành tính, ung thư không quan trọng về mặt lâm sàng, và ung thư quan trọng về mặt lâm sàng tương ứng với 129 (45%), 18 (6%) và 141 (49%) bệnh nhân. Phân tích đa biến cho thấy điểm số PI-RADS v2 và mật độ PSA là những yếu tố dự đoán độc lập cho ung thư tuyến tiền liệt và ung thư tuyến tiền liệt có ý nghĩa lâm sàng. Khi kết hợp điểm số PI-RADS v2 và mật độ PSA, điểm số PI-RADS v2 từ 4 trở lên và mật độ PSA từ 0.15 ng/mL/mL hoặc điểm số PI-RADS v2 là 3 và mật độ PSA từ 0.30 ng/mL/mL liên quan đến tỷ lệ phát hiện ung thư tuyến tiền liệt có ý nghĩa lâm sàng cao nhất (76–97%) trong lần sinh thiết đầu tiên. Trong nhóm bệnh nhân này có kết quả sinh thiết âm tính, 22% sau đó được chẩn đoán là ung thư tuyến tiền liệt. Ngược lại, điểm số PI-RADS v2 từ 3 trở xuống và mật độ PSA dưới 0.15 ng/mL/mL cho kết quả không có ung thư tuyến tiền liệt có ý nghĩa lâm sàng và không có thêm phát hiện ung thư tuyến tiền liệt trong các sinh thiết tiếp theo.
Sự kết hợp của điểm số PI-RADS v2 và mật độ PSA có thể giúp trong quá trình ra quyết định trước sinh thiết tuyến tiền liệt và trong chiến lược theo dõi ở bệnh nhân chưa từng sinh thiết. Bệnh nhân có điểm số PI-RADS v2 từ 3 trở xuống và mật độ PSA dưới 0.15 ng/mL/mL có thể tránh các sinh thiết không cần thiết.
To analyse the outcomes of emergency ureteroscopy (
We conducted a retrospective review of all emergency
A total of 499
We showed that emergency
There are now five targeted agents, i.e. sorafenib, sunitinib, temsirolimus, bevacizumab (in combination with interferon) and everolimus, that have been shown to improve the outcome in patients with metastatic clear cell renal cell carcinoma (mRCC), in randomized controlled trials (RCTs). Compared with the period when cytokines were the only systemic intervention known to have any activity, decisions on medical management are now complex. Clinicians must seek to adjust therapy to the circumstances of the individual patient, and consider the sequencing of agents. In this context, several expert groups have sought to provide treatment guidelines. As in other diseases, guidelines for mRCC seek to establish evidence‐based recommendations for best clinical practice and to encourage their widespread use. Data from phase III trials (level 1 evidence) are an essential element in this process, and guidelines need continual updating in the light of new findings. However, there are inevitably questions that large RCTs have not directly addressed. This is the case for major subgroups of the mRCC population, e.g. the elderly and those with comorbidities. In these circumstances, less well‐controlled sources of data, and clinical experience, have a role to play. Certain guidelines (although not all) acknowledge the contribution that such sources of evidence can make.
To determine the effect of intravesical protrusion of the prostate (IPP, graded I to III) on lower urinary tract function, by correlating it with the results of a pressure‐flow study.
In a prospective study men (aged> 50 years) with lower urinary tract symptoms were initially evaluated as recommended by the International Consultation on Benign Prostatic Hyperplasia, together with the IPP and prostate volume, as measured by transabdominal ultrasonography. These variables were then correlated with the results from a pressure‐flow study.
The IPP was a statistically significant predictor (
The IPP assessed by transabdominal ultrasonography is a better and more reliable predictor of BOO than the other variables assessed.
Study Type – Diagnostic (case series)
Level of Evidence 4
It is known that magnetic resonance imaging (MRI) is safe and effective for imaging patients with inflatable penile prostheses (IPPs). Previous series have reported results of MRI for imaging series of patients with IPPs. The impact on management in particular with regard to salvage procedures is not well defined.
This study represents the largest known experience with MRI evaluation of IPPs. This also provides an algorithm that assists with decisions regarding utilization of MRI and treatment planning based on results.
In some patients who undergo placement of an inflatable penile prosthesis (IPP) the device may function inadequately. We describe the use of magnetic resonance imaging (MRI) for anatomical localization and detection of prosthesis malrotation, angulation, displacement and erosion in IPPs with equivocal clinical examination.
We prospectively performed MRI by a defined protocol including T1‐weighted imaging, and transaxial, sagittal and coronal fat‐saturated fast spin‐echo T2‐weighted imaging in both deflated and inflated states to evaluate patients seen at our referral centre for IPP‐related complaints. We retrospectively reviewed 32 such MRI studies performed as a supplement to clinical examination between 2000 and 2008.
Of 32 cases, 75% (24/32) underwent surgical intervention. Of these, 45% (11/24) underwent device salvage procedures including cylinder revision in 33% (8/24), cylinder replacement in 8% (2/24) and pump replacement in 4% (1/24). MRI was most useful for determination of surgical approach in those with abnormal physical examination, and for justification of either surgical or expectant management in those with indeterminate physical examination.
MRI is safe and effective for imaging genitourinary prostheses. We found MRI to be a valuable adjunct for evaluation of IPP‐related complaints when clinical examination is equivocal as it detected a variety of prosthetic and corporal abnormalities and impacted management decisions regarding observation, replacement or device salvage procedures. We provide technique, results and an algorithm that can be beneficial in this complex subset of patients.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10