Australian Veterinary Journal
Công bố khoa học tiêu biểu
* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo
Trong cả hai thí nghiệm, tỷ lệ mắc chứng khó sinh hoặc trẻ mới sinh chết không bị ảnh hưởng một cách đáng kể bởi mức độ dinh dưỡng trong thời kỳ thai kỳ cuối. Cân nặng của bê khi sinh đã giảm và sự phát triển xương chậu của mẹ đã bị chậm lại khi lượng thức ăn của bò cái bị hạn chế trước khi sinh.
Các thí nghiệm này đã cung cấp bằng chứng rõ ràng về những nguy hiểm liên quan đến việc để bò cái giảm quá nhiều cân trong thời kỳ thai kỳ cuối. Việc mất khoảng 0.5kg mỗi ngày trong ba tháng cuối của thai kỳ đã liên quan đến việc chuyển dạ yếu, tăng tỷ lệ khó sinh, gia tăng tỷ lệ tử vong xung quanh thời gian sinh, giảm tỷ lệ tăng trưởng của bê, thời gian không động dục kéo dài sau sinh và tỷ lệ mang thai giảm (không phải mọi sự khác biệt đều có ý nghĩa thống kê). Những tác động này không xảy ra ở những bò cái duy trì hoặc tăng cân với mức độ vừa phải trong thời kỳ thai kỳ cuối.
Dựa trên công trình này, người ta đề xuất rằng bò cái nên được cho ăn để cho phép mức tăng cân vừa phải (0–0.5kg/ngày) trong thời kỳ thai kỳ cuối.
Trong nghiên cứu này, các nhóm bò cái Angus được phối giống khi còn là bê con đã được duy trì ở hai mức dinh dưỡng khác nhau trong giai đoạn cuối của thai kỳ nhằm mục đích nghiên cứu tác động đến trọng lượng khi sinh của bê và tình trạng dystocia.
Các mức dinh dưỡng khác nhau đã tạo ra sự chênh lệch 5 lb về trọng lượng khi sinh của bê (P < 0.01).
Khi tiến vào mùa sinh nở, trung bình trọng lượng bê khi sinh tăng thêm 1.4 lb sau mỗi mười ngày (P < 0.01).
Các bò cái gặp phải tình trạng dystocia có trọng lượng bê nặng hơn 7 lb và xương chậu nhỏ hơn 15.6 cm vuông so với các bò cái sinh đẻ bình thường (P < 0.01).
Sau khi quan sát quá trình sinh nở, kết luận rằng sinh nở không phức tạp sẽ trở nên phức tạp trong vòng hai giờ sau khi xuất hiện túi ối.
Sự kháng thuốc pyrethroid tổng hợp (SP) được ghi nhận lần đầu tiên ở ruồi trâu tại Úc vào năm 1980, liên quan đến việc sử dụng DDT và fenvalerate trước đó. Đến thập niên 1990, hiện tượng kháng thuốc đã lan rộng. Sự kháng thuốc SP ở ruồi sừng thuộc khu vực châu Mỹ liên quan đến các đột biến
Các virus flavivirus, bao gồm virus Kunjin, là những virus muỗi gây ra bệnh viêm não tủy ở con người và ngựa. Báo cáo ca bệnh này mô tả một con ngựa Ả Rập gặp phải các triệu chứng thần kinh của bệnh viêm não tủy do flavivirus, việc điều tra chẩn đoán và xác nhận một ca bệnh chưa được báo cáo về bệnh viêm não tủy do virus Kunjin ở Australia.
Các dấu hiệu lâm sàng chính liên quan đến tình trạng khập khiễng là sự tồn tại của các lòng bàn chân bị mòn quá mức và/ hoặc bị bầm tím, hoặc đá nằm kẹt trong khe ngoắc giữa các ngón. Các yếu tố liên quan đến tình trạng khập khiễng bao gồm: kích thước trang trại và đàn, tuổi của bò, việc cho ăn trong chuồng, việc vào chuồng tự nguyện, và các đặc điểm của đường trang trại bao gồm độ dài, sự hiện diện của các dốc d steep, loại vật liệu bề mặt, sự hiện diện và xử lý các đoạn bị hỏng và duy trì, bao gồm cả lịch sử lăn. Mối liên hệ giữa những yếu tố này và các dấu hiệu lâm sàng cụ thể đã được xem xét. Chi phí trung bình ước tính là 42,90 đô la mỗi con bò bị khập khiễng do mất năng suất, điều trị, việc loại bỏ hoặc chết của các con bò bị khập khiễng, và thời gian lao động thêm để quản lý các con bò bị khập khiễng. Kết luận cho thấy rằng địa điểm, kết cấu, bảo trì và cách sử dụng đường trang trại có tầm quan trọng lớn đối với tỷ lệ tình trạng khập khiễng trong các đàn ở khu vực này và những khuyến nghị nhằm giảm thiểu tình trạng khập khiễng được đưa ra.
Tám con đực giống Merino đã được ghép với 400 con cái Merino trong một bãi chăn rộng 31 ha trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 6. Sáu con đực được theo dõi về trọng lượng cơ thể, tình trạng cơ thể, thể tích tinh hoàn và đặc điểm tinh dịch trước, trong và sau giai đoạn ghép. Một ngày trước khi ghép, cứ sau 2 tuần trong suốt thời gian ghép và 2 tuần sau khi kết thúc giai đoạn ghép, đã có 6 lần thu mẫu được thực hiện từ mỗi con đực bằng một âm đạo nhân tạo. Tinh dịch được đánh giá về khối lượng, mật độ, động lực sóng và hình thái.
To understand the likely mechanisms responsible for heel horn softening when cattle stand in their own effluent. To examine the effectiveness of some footbath chemicals in preventing heel horn softening.
Shavings from the heels of cattle were used in a laboratory test to examine the swelling effects of cow urine, urea, sulphide and ammonia. Formalin, glutaraldehyde, glyoxal, zinc sulphate, copper sulphate, alum, tannic acid and a compound containing nitrocellulose plus nylon, were compared for their ability to prevent swelling in heel shavings induced by urea plus 2‐mercaptoethanol.
Cow urine caused heel horn to swell. Urea caused swelling at concentrations normally found in cow urine. Sulphide caused swelling at concentrations normally found in cow slurry. Low concentrations of ammonia solution also resulted in swelling. Formalin and glutaraldehyde prevented swelling induced by high concentrations of urea plus 2‐mercap‐toethanol. Copper sulphate had a moderate anti‐swelling effect. Zinc sulphate, alum, tannic acid, and nitrocellulose plus nylon were relatively ineffective in preventing swelling.
Cow urine can cause degradation of heel horn in cattle feet. The chemical agents that cause this could be urea, sulphide anions and ammonia. Degradation by urine can be prevented by pretreating heel horn with formalin. Glutaraldehyde may be an effective noncarcinogenic alternative to formalin.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 8