Australian Veterinary Journal

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
Effects of collecting serial tracheal aspirate and bronchoalveolar lavage samples on the cytological findings of subsequent fluid samples in healthy Standardbred horses
Australian Veterinary Journal - Tập 90 Số 7 - Trang 247-251 - 2012
SY Tee, AJ Dart, MH MacDonald, NR Perkins, N. U. Horadagoda, L. B. Jeffcott

Objective To evaluate the effect of collecting serial tracheal aspirate (TA) and bronchoalveolar lavage (BAL) samples on the cytological findings of subsequent fluid samples obtained from horses without clinical signs of respiratory disease.

Study design Experimental.

Study population Six healthy Standardbred horses.

Methods Endoscopically‐guided TA samples, and BAL samples collected using the blind field technique were obtained from the six horses on days 1, 2, 3, 4, 5, 12, and 17. On day 17, horses were sampled three times: at baseline and at 2.5 h and 4 h apart. The differential cytology of the fluid samples collected at each time point was expressed as percentages and compared statistically.

Results There was a significant increase in neutrophil percentage in the TA samples taken at day 17 (at 2.5 h but not at 4 h apart). There was no significant change in the neutrophil percentages in the TA samples when repeated samples were taken ≥24 h apart. There was no significant change in the neutrophil percentages in the BAL fluid at any collection point. There were inconsistent changes in the percentages of lymphocytes and macrophages in the BAL fluid over time, but these remained within normal reference ranges and were considered clinically insignificant.

Conclusions Serial TA and BAL samples can be taken at 24 h intervals without affecting the cytological findings of subsequent fluid samples collected using the techniques described.

ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC GIỚI HẠN DƯỠNG CHẤT ĐẾN CÁC BỨC HEREFORD TRONG THỜI KỲ THAI KỲ CUỐI Dịch bởi AI
Australian Veterinary Journal - Tập 55 Số 10 - Trang 467-474 - 1979
G.A. Kroker, L. J. Cummins

TÓM TẮT Hai thí nghiệm đã được tiến hành để xem xét những hậu quả của việc cố gắng kiểm soát chứng khó sinh ở bò cái Hereford bằng cách hạn chế dinh dưỡng trong thời kỳ thai kỳ cuối. Mức độ dinh dưỡng đã được kiểm soát bằng cách thay đổi khẩu phần ăn trong thí nghiệm 1 và bằng cách thay đổi sẵn có của đồng cỏ trong thí nghiệm 2.

Trong cả hai thí nghiệm, tỷ lệ mắc chứng khó sinh hoặc trẻ mới sinh chết không bị ảnh hưởng một cách đáng kể bởi mức độ dinh dưỡng trong thời kỳ thai kỳ cuối. Cân nặng của bê khi sinh đã giảm và sự phát triển xương chậu của mẹ đã bị chậm lại khi lượng thức ăn của bò cái bị hạn chế trước khi sinh.

Các thí nghiệm này đã cung cấp bằng chứng rõ ràng về những nguy hiểm liên quan đến việc để bò cái giảm quá nhiều cân trong thời kỳ thai kỳ cuối. Việc mất khoảng 0.5kg mỗi ngày trong ba tháng cuối của thai kỳ đã liên quan đến việc chuyển dạ yếu, tăng tỷ lệ khó sinh, gia tăng tỷ lệ tử vong xung quanh thời gian sinh, giảm tỷ lệ tăng trưởng của bê, thời gian không động dục kéo dài sau sinh và tỷ lệ mang thai giảm (không phải mọi sự khác biệt đều có ý nghĩa thống kê). Những tác động này không xảy ra ở những bò cái duy trì hoặc tăng cân với mức độ vừa phải trong thời kỳ thai kỳ cuối.

Dựa trên công trình này, người ta đề xuất rằng bò cái nên được cho ăn để cho phép mức tăng cân vừa phải (0–0.5kg/ngày) trong thời kỳ thai kỳ cuối.

NGHIÊN CỨU VỀ DYSTOCIA VÀ TRỌNG LƯỢNG CHÀO ĐỜI Ở CON BÒ ANGUS NẢY TRONG ĐỘ TUỔI HAI NĂM Dịch bởi AI
Australian Veterinary Journal - Tập 46 Số 1 - Trang 1-7 - 1970
J. S. Young
Tóm tắt

Trong nghiên cứu này, các nhóm bò cái Angus được phối giống khi còn là bê con đã được duy trì ở hai mức dinh dưỡng khác nhau trong giai đoạn cuối của thai kỳ nhằm mục đích nghiên cứu tác động đến trọng lượng khi sinh của bê và tình trạng dystocia.

Các mức dinh dưỡng khác nhau đã tạo ra sự chênh lệch 5 lb về trọng lượng khi sinh của bê (P < 0.01).

Khi tiến vào mùa sinh nở, trung bình trọng lượng bê khi sinh tăng thêm 1.4 lb sau mỗi mười ngày (P < 0.01).

Các bò cái gặp phải tình trạng dystocia có trọng lượng bê nặng hơn 7 lb và xương chậu nhỏ hơn 15.6 cm vuông so với các bò cái sinh đẻ bình thường (P < 0.01).

Sau khi quan sát quá trình sinh nở, kết luận rằng sinh nở không phức tạp sẽ trở nên phức tạp trong vòng hai giờ sau khi xuất hiện túi ối.

Cơ chế kháng thuốc pyrethroid tổng hợp ở ruồi trâu tại phía Đông Nam Queensland Dịch bởi AI
Australian Veterinary Journal - Tập 89 Số 3 - Trang 70-72 - 2011
JT ROTHWELL, JAT Morgan, PJ James, GW Brown, FD Guerrero, WK JORGENSEN

Sự kháng thuốc pyrethroid tổng hợp (SP) được ghi nhận lần đầu tiên ở ruồi trâu tại Úc vào năm 1980, liên quan đến việc sử dụng DDT và fenvalerate trước đó. Đến thập niên 1990, hiện tượng kháng thuốc đã lan rộng. Sự kháng thuốc SP ở ruồi sừng thuộc khu vực châu Mỹ liên quan đến các đột biến kdrsuper‐kdr trong một gen mã hóa cho kênh natri nhạy cảm với điện thế. Chúng tôi mô tả khả năng kháng thuốc SP gấp 7-20 lần ở ruồi trâu từ phía Đông Nam Queensland, trình bày bằng chứng về sự hiện diện của những con ruồi mang gen kháng dị hợp ở vị trí kdr, và cho thấy sự gia tăng tần số của alen kháng 1 tháng sau khi điều trị gia súc bằng thuốc SP.

#kháng thuốc #pyrethroid tổng hợp #ruồi trâu #đột biến #kênh natri #Queensland
Bệnh não tủy do virus Kunjin ở một con ngựa Ả Rập tại New South Wales, Australia Dịch bởi AI
Australian Veterinary Journal - Tập 90 Số 8 - Trang 321-324 - 2012
SY Tee, N. U. Horadagoda, TD Mogg

Các virus flavivirus, bao gồm virus Kunjin, là những virus muỗi gây ra bệnh viêm não tủy ở con người và ngựa. Báo cáo ca bệnh này mô tả một con ngựa Ả Rập gặp phải các triệu chứng thần kinh của bệnh viêm não tủy do flavivirus, việc điều tra chẩn đoán và xác nhận một ca bệnh chưa được báo cáo về bệnh viêm não tủy do virus Kunjin ở Australia.

#virus flavivirus #virus Kunjin #viêm não tủy #ngựa Ả Rập #Australia
Tỷ lệ, chi phí và các yếu tố liên quan đến tình trạng khập khiễng ở bò sữa tại vùng Tây Nam Victoria Dịch bởi AI
Australian Veterinary Journal - Tập 65 Số 6 - Trang 171-176 - 1988
DJ HARRIS, CD HIBBURT, GA Anderson, P.J. Younis, DH FITSPATRICK, AC DUNN, I.R. Parsons, NR McBEATH

TÓM TẮT: Một cuộc khảo sát 73 trang trại bò sữa ở vùng Tây Nam Victoria đã được thực hiện nhằm đánh giá chi phí và tỷ lệ khập khiễng trung bình trong đàn bò từ thời điểm sinh đẻ đến cuối tháng 11 năm 1985, và để xác định các yếu tố liên quan đến đàn, quản lý và môi trường gây ra tình trạng khập khiễng. Kích thước đàn trung bình là 125 con bò (từ 82 đến 220 con). Tình trạng khập khiễng xuất hiện ở 64 (88%) đàn, và tỷ lệ khập khiễng trung bình là 7.0% (khoảng từ 0.0 đến 30.9%).

Các dấu hiệu lâm sàng chính liên quan đến tình trạng khập khiễng là sự tồn tại của các lòng bàn chân bị mòn quá mức và/ hoặc bị bầm tím, hoặc đá nằm kẹt trong khe ngoắc giữa các ngón. Các yếu tố liên quan đến tình trạng khập khiễng bao gồm: kích thước trang trại và đàn, tuổi của bò, việc cho ăn trong chuồng, việc vào chuồng tự nguyện, và các đặc điểm của đường trang trại bao gồm độ dài, sự hiện diện của các dốc d steep, loại vật liệu bề mặt, sự hiện diện và xử lý các đoạn bị hỏng và duy trì, bao gồm cả lịch sử lăn. Mối liên hệ giữa những yếu tố này và các dấu hiệu lâm sàng cụ thể đã được xem xét. Chi phí trung bình ước tính là 42,90 đô la mỗi con bò bị khập khiễng do mất năng suất, điều trị, việc loại bỏ hoặc chết của các con bò bị khập khiễng, và thời gian lao động thêm để quản lý các con bò bị khập khiễng. Kết luận cho thấy rằng địa điểm, kết cấu, bảo trì và cách sử dụng đường trang trại có tầm quan trọng lớn đối với tỷ lệ tình trạng khập khiễng trong các đàn ở khu vực này và những khuyến nghị nhằm giảm thiểu tình trạng khập khiễng được đưa ra.

THAY ĐỔI TRONG TÌNH TRẠNG VẬT LÝ VÀ ĐẶC ĐIỂM TINH DỊCH CỦA CÁC CON OV-ĐỰC ĐƯỢC GHÉP TRONG CÁC BÙNG CHẢY Dịch bởi AI
Australian Veterinary Journal - Tập 55 Số 5 - Trang 225-228 - 1979
H. W. Simpson, T. N. Edey
TÓM TẮT

Tám con đực giống Merino đã được ghép với 400 con cái Merino trong một bãi chăn rộng 31 ha trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 6. Sáu con đực được theo dõi về trọng lượng cơ thể, tình trạng cơ thể, thể tích tinh hoàn và đặc điểm tinh dịch trước, trong và sau giai đoạn ghép. Một ngày trước khi ghép, cứ sau 2 tuần trong suốt thời gian ghép và 2 tuần sau khi kết thúc giai đoạn ghép, đã có 6 lần thu mẫu được thực hiện từ mỗi con đực bằng một âm đạo nhân tạo. Tinh dịch được đánh giá về khối lượng, mật độ, động lực sóng và hình thái.

#Merino #Tinh dịch #Tinh hoàn #Ghép #Mật độ tinh trùng #Đặc điểm tinh dịch
Swelling of cattle heel horn by urine
Australian Veterinary Journal - Tập 82 Số 3 - Trang 161-163 - 2004
NG Gregory
Objectives

To understand the likely mechanisms responsible for heel horn softening when cattle stand in their own effluent. To examine the effectiveness of some footbath chemicals in preventing heel horn softening.

Procedure

Shavings from the heels of cattle were used in a laboratory test to examine the swelling effects of cow urine, urea, sulphide and ammonia. Formalin, glutaraldehyde, glyoxal, zinc sulphate, copper sulphate, alum, tannic acid and a compound containing nitrocellulose plus nylon, were compared for their ability to prevent swelling in heel shavings induced by urea plus 2‐mercaptoethanol.

Results

Cow urine caused heel horn to swell. Urea caused swelling at concentrations normally found in cow urine. Sulphide caused swelling at concentrations normally found in cow slurry. Low concentrations of ammonia solution also resulted in swelling. Formalin and glutaraldehyde prevented swelling induced by high concentrations of urea plus 2‐mercap‐toethanol. Copper sulphate had a moderate anti‐swelling effect. Zinc sulphate, alum, tannic acid, and nitrocellulose plus nylon were relatively ineffective in preventing swelling.

Conclusions

Cow urine can cause degradation of heel horn in cattle feet. The chemical agents that cause this could be urea, sulphide anions and ammonia. Degradation by urine can be prevented by pretreating heel horn with formalin. Glutaraldehyde may be an effective noncarcinogenic alternative to formalin.

Copper Deficiency in Sheep in Western Australia: A Preliminary Account of the Ætiology of Enzootic Ataxia of Lambs and an Anæmia of Ewes
Australian Veterinary Journal - Tập 13 Số 4 - Trang 138-149 - 1937
H. W. Bennetts, F. E. Chapman
Tổng số: 77   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 8