ANZ Journal of Surgery

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
NON‐NEOPLASTIC CYSTIC AND CYSTIC‐LIKE LESIONS OF THE PANCREAS: MAY MIMIC PANCREATIC CYSTIC NEOPLASMS
ANZ Journal of Surgery - Tập 76 Số 5 - Trang 325-331 - 2006
Brian K. P. Goh, Yu‐Meng Tan, Yaw‐Fui Alexander Chung, Pierce K. H. Chow, Hock Soo Ong, Dennis Lim, Wai‐Keong Wong, London Lucien Ooi

Background:  Cystic lesions of the pancreas consist of a broad range of pathological entities. With the exception of the pancreatic pseudocyst, these are usually caused by pancreatic cystic neoplasms. Non‐neoplastic pancreatic cystic and cystic‐like lesions are extremely rare. In the present article, the surgical experience with these unusual entities over a 14‐year period is reported.

Methods:  Between 1991 and 2004, all patients who underwent surgical exploration for a cystic lesion of the pancreas were retrospectively reviewed. Patients with a pancreatic pseudocyst were excluded. There were 106 patients of whom 8 (7.5%) had a final pathological diagnosis consistent with a non‐neoplastic pancreatic cystic or cystic‐like lesion, including 3 patients with a benign epithelial cyst, 2 with a pancreatic abscess (one tuberculous and one foreign body), 2 with mucous retention cysts and 1 with a mucinous non‐neoplastic cyst. These eight patients are the focus of this study.

Results:  There were six female and two male patients with a median age of 61.5 years (range, 41–71 years). All the patients were of Asian origin including seven Chinese and one Indian. Four of the patients were asymptomatic and their pancreatic cysts were discovered incidentally on radiological imaging for other indications. All the patients underwent preoperative radiological investigations, including ultrasonography, computed tomography or magnetic resonance imaging, which showed a cystic lesion of the pancreas. Three patients, all of whom were symptomatic, were diagnosed preoperatively with a malignant cystic neoplasm on the basis of radiological imaging. Two patients were eventually found to have a pancreatic abscess, one tuberculous and the other, secondary to foreign body perforation. The third patient was found on final histology to have chronic pancreatitis with retention cysts. The remaining five patients had a preoperative diagnosis of an indeterminate cyst; on pathological examination, they were found to have a benign epithelial (congenital) cyst (n = 3), retention cyst (n = 1) and mucinous non‐neoplastic cyst (n = 1). At a median follow up of 20 months (range, 3–34 months), none of the patients had any evidence of recurrent disease.

Conclusion:  Non‐neoplastic cystic and cystic‐like lesions of the pancreas are rare causes of pancreatic cystic lesions that are generally benign and do not require surgery when asymptomatic. However, despite advances in diagnostic investigations such as endoscopic ultrasound with fluid aspirate and magnetic resonance imaging, the preoperative diagnosis remains unreliable. Hence, the challenge for all clinicians is to recognize these lesions preoperatively and to avoid ‘unnecessary' surgery.

COMPOSITION OF VOLATILE ORGANIC COMPOUNDS IN DIATHERMY PLUME AS DETECTED BY SELECTED ION FLOW TUBE MASS SPECTROMETRY
ANZ Journal of Surgery - Tập 77 Số 1-2 - Trang 20-23 - 2007
Andrew R. Moot, Katherine M. Ledingham, Paul F. Wilson, Senti T. Senthilmohan, David R. Lewis, Justin Roake, Randall A. Allardyce

Background:  There is some evidence that surgical plume may pose a risk to health professionals, but the risks posed by volatile organic compounds have not been thoroughly investigated.

Methods:  The composition of volatile organic compounds in diathermy plume produced during surgery was analysed by selected ion flow tube mass spectrometry.

Results:  Hydrogen cyanide (3–51 parts per million), acetylene (2–8 parts per million), and 1,3‐butadiene (0.15–0.69 parts per million) were identified in the plume.

Conclusion:  Although there is no evidence of adverse health effects from the volatile organic compound in diathermy plume, the evidence that it is safe to breathe this plume is lacking. Therefore, we would recommend the use of smoke evacuators where practical.

Lợi ích của chụp cộng hưởng positron bằng fluorodeoxyglucose trong các bệnh lý ác tính của động mạch phổi giả lập thuyên tắc phổi Dịch bởi AI
ANZ Journal of Surgery - Tập 83 Số 5 - Trang 342-347 - 2013
Eun Jeong Lee, Seung Hwan Moon, Joon Young Choi, Kyung Soo Lee, Yong Soo Choi, Yearn Seong Choe, Kyung‐Han Lee, Byung‐Tae Kim
Tóm tắtĐặt vấn đề

Vai trò của 18F‐fluorodeoxyglucose chụp cộng hưởng positron/computed tomography (18FFDG PET/CT) trong việc đánh giá tổn thương động mạch phổi vẫn chưa được thiết lập. Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá tính hữu ích của hình ảnh 18FFDG PET/CT trong việc phân biệt tổn thương động mạch phổi (PA) ác tính và lành tính.

Phương pháp

Trong nghiên cứu hồi cứu này, 18 bệnh nhân với 26 khiếm khuyết độ đậm độ thấp nghi ngờ ác tính on PA trên chụp CT ngực có tiêm thuốc cản quang đã được tuyển chọn; tất cả họ sau đó đều tiến hành 18FFDG PET/CT. Giá trị hấp thụ chuẩn hóa tối đa (SUVmax) cho tất cả các tổn thương PA, được định nghĩa là sự hấp thu 18FFDG, được đo. Chẩn đoán cuối cùng sau đó được xác định bởi những phát hiện giải phẫu bệnh, theo dõi chụp CT ngực hoặc theo dõi lâm sàng, và so sánh với hình ảnh PET.

Kết quả

Tổng cộng, có 6 sarcoma PA, 5 tắc mạch u và 15 thuyên tắc phổi (PTE) xảy ra ở nhóm bệnh nhân này. Không chỉ có SUVmax của các tổn thương PA ác tính (10.2 ± 10.8) cao hơn đáng kể so với PTE (1.7 ± 0.3; P < 0.001), không có sự chồng chéo giữa các nhóm. Ngược lại, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về SUVmax giữa sarcoma PA (12.8 ± 14.7) và tắc mạch u (7.0 ± 1.32; P = 1.000).

Kết luận

18FFDG PET/CT là một phương pháp hình ảnh hữu ích để phân biệt tổn thương PA ác tính và lành tính ở những bệnh nhân có các khiếm khuyết độ đậm độ thấp không rõ ràng trên chụp CT ngực có tiêm thuốc cản quang.

Các khối u Phyllodes tái phát của vú: Đặc điểm bệnh lý và những ảnh hưởng lâm sàng Dịch bởi AI
ANZ Journal of Surgery - Tập 76 Số 6 - Trang 476-480 - 2006
Ern Yu Tan, Tan Puay Hoon, Wei Sean Yong, Hwee Bee Wong, Ho G. Hui, Alvin Yeo, Chow Yin Wong

Thông tin nền:  Khối u Phyllodes (PT) của vú là những khối u biểu mô sợi có khả năng tái phát tại chỗ lên đến 19% bệnh nhân. Việc không đạt được biên độ phẫu thuật đầy đủ là một yếu tố nguy cơ quan trọng cho sự tái phát tại chỗ. Điều này là một vấn đề phổ biến vì PT có triệu chứng lâm sàng tương tự như u tuyến sợi thường gặp hơn và do đó thường được cắt bỏ tại chỗ mà không có biên phẫu thuật rõ ràng. Vẫn còn gây tranh cãi về việc có cần thiết phải trải qua phẫu thuật lặp lại để đạt được biên độ âm tính về mặt bệnh lý sau khi chẩn đoán một khối u PT là lành tính hoặc biên giới hay không. Mặc dù phần lớn các ca tái phát có cấu trúc mô học tương tự như khối u ban đầu, nhưng khả năng tái phát ác tính vẫn có thể xảy ra. Các khối u ác tính có thể di căn qua đường huyết và di căn liên quan đến tiên lượng kém do chúng phản ứng kém với hóa trị liệu thông thường.

Phương pháp:  Chúng tôi đã tiến hành xem xét hồi cứu 37 phụ nữ có sự tái phát tại chỗ trong khoảng thời gian 10 năm tại Bệnh viện Đa khoa Singapore. Dữ liệu, bao gồm số tuổi tại thời điểm chẩn đoán, triệu chứng lâm sàng, đặc điểm mô học, loại phẫu thuật đã thực hiện, quá trình lâm sàng và đặc điểm của bệnh tái phát tại chỗ, đã được phân tích. So sánh đã được thực hiện giữa những người có khối u lành tính, biên giới và ác tính, cũng như giữa những người phát triển tái phát ác tính và những người không phát triển.

#Khối u Phyllodes #bệnh lý học #tái phát khối u #phụ khoa.
Quản lý tổn thương đường mật sau phẫu thuật cắt túi mật bằng nội soi: một bài tổng quan Dịch bởi AI
ANZ Journal of Surgery - Tập 80 Số 1-2 - Trang 75-81 - 2010
Wan Yee Lau, Eric C. H. Lai, Stephanie H. Y. Lau
Tóm tắt

Đặt vấn đề:  Tổn thương đường mật xảy ra sau phẫu thuật cắt túi mật là một thảm họa do y tế gây ra, liên quan đến tỷ lệ morbidities và mortalities lớn trong thời kỳ phẫu thuật, giảm khả năng sống lâu dài và chất lượng cuộc sống, cũng như tỷ lệ kiện tụng cao sau đó. Mục tiêu của bài báo này là xem xét việc quản lý tổn thương đường mật sau phẫu thuật cắt túi mật.

Phương pháp:  Tìm kiếm cơ sở dữ liệu Medline và PubMed đã được thực hiện để xác định các bài báo tiếng Anh từ năm 1970 đến 2008 sử dụng các từ khóa ‘tổn thương đường mật’, ‘cắt túi mật’ và ‘phân loại’. Các tài liệu bổ sung được xác định bằng việc tìm kiếm thủ công các tài liệu tham khảo từ các bài báo chính. Các báo cáo ca đã bị loại trừ.

Gãy mắt cá chân: Kết quả chức năng và lối sống sau 2 năm Dịch bởi AI
ANZ Journal of Surgery - Tập 72 Số 10 - Trang 724-730 - 2002
Nicholas J. Lash, Geoffrey Horne, Jann Fielden, P. Devane

Đề cương nghiên cứu:  Gãy mắt cá chân chiếm tỷ lệ cao trong tổng số các ca gãy xương được điều trị tại New Zealand. Các nghiên cứu quốc tế cho thấy kết quả chức năng có sự đa dạng tùy thuộc vào các loại gãy khác nhau và từ đó dẫn đến các kết quả về lối sống khác nhau.

Phương pháp:  Hồ sơ tại phòng khám gãy xương và sổ tiếp nhận bệnh nhân chỉnh hình tại Bệnh viện Công cộng Wellington, Capital Coast Health, Wellington đã được xem xét hồi cứu để thu thập một nhóm bệnh nhân bị gãy mắt cá chân trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 12 năm 1998. Các bệnh nhân này được yêu cầu điền vào bảng câu hỏi gửi qua bưu điện về tình trạng chức năng mắt cá chân và lối sống của họ, hai năm sau khi xảy ra gãy mắt cá chân. Các hình ảnh X-quang của bệnh nhân được xem xét để phân loại các loại gãy mắt cá chân đã xảy ra.

#gãy mắt cá chân; kết quả chức năng; lối sống; nghiên cứu hồi cứu; Wellington
Đặc điểm bệnh lý - lâm sàng của ung thư tế bào nhẫn tại dạ dày Dịch bởi AI
ANZ Journal of Surgery - Tập 74 Số 12 - Trang 1060-1064 - 2004
Dong Yi Kim, Young Kyu Park, Jae Kyoon Joo, Seong Yeob Ryu, Young Jin Kim, Shin Kon Kim, Jae Hyuk Lee

Đặt vấn đề:  Ung thư tế bào nhẫn (SRC) tại dạ dày có đặc trưng là tiên lượng kém và khả năng xâm lấn vào thành dạ dày, mặc dù các nghiên cứu sinh tồn so sánh giữa các loại ung thư có và không có đặc điểm SRC đã cho kết quả không đồng nhất. Nghiên cứu này so sánh các đặc điểm bệnh lý - lâm sàng và tiên lượng của bệnh nhân bị ung thư SRC với bệnh nhân bị ung thư dạ dày không tế bào nhẫn (NSRC).

Phương pháp:  Chúng tôi đã xem xét hồ sơ của 2358 bệnh nhân được chẩn đoán bị ung thư dạ dày và được điều trị phẫu thuật từ tháng 1 năm 1980 đến tháng 12 năm 1999 tại Khoa Phẫu thuật, Bệnh viện Đa khoa Quốc gia Chonnam. Trong số đó, có 204 bệnh nhân (8.7%) bị ung thư SRC so với 2154 bệnh nhân bị NSRC.

Kết quả:  Có sự khác biệt đáng kể về độ tuổi trung bình của bệnh nhân, kích thước khối u trung bình, độ sâu xâm lấn, tỷ lệ di căn hạch bạch huyết và di căn khu vực, giai đoạn khối u và khả năng chữa trị giữa bệnh nhân có mô học SRC và NSRC. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới tính, vị trí hoặc sự lan rộng vào khoang phúc mạc giữa bệnh nhân bị ung thư SRC và NSRC. Ung thư tế bào nhẫn của dạ dày có tỷ lệ ung thư dạ dày giai đoạn đầu cao hơn (46.1%) so với NSRC (21.7%). Tỷ lệ sống sót tổng thể trong 5 năm của tất cả bệnh nhân bị ung thư SRC là 60.2% so với 48.9% ở bệnh nhân NSRC (P < 0.01). Sử dụng mô hình tỷ lệ nguy cơ tỷ lệ Cox, di căn hạch bạch huyết và khả năng chữa trị là các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả. Mô học tế bào nhẫn không phải là một yếu tố tiên lượng độc lập.

Kết luận:  Bệnh nhân có mô học SRC không có tiên lượng xấu hơn bệnh nhân có các loại ung thư dạ dày khác.

Phẫu thuật nạo vét hạch bạch huyết triệt để cho bệnh melanoma Dịch bởi AI
ANZ Journal of Surgery - Tập 73 Số 5 - Trang 294-299 - 2003
Jonathan W. Serpell, Peter Carne, Michael Bailey

Đặt vấn đề:  Phẫu thuật nạo vét hạch bạch huyết điều trị cho melanoma nhằm đạt được kiểm soát bệnh khu vực. Nạo vét hạch triệt để (RLND) có thể là một quy trình khó khăn liên quan đến tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật đáng kể.

Mục tiêu của nghiên cứu hiện tại là đánh giá kiểm soát bệnh khu vực và biến chứng ở một loạt các ca nạo vét hạch được thực hiện tại một đơn vị chuyên môn.

Phương pháp:  Nghiên cứu hiện tại bao gồm phân tích 73 ca nạo vét hạch ở 64 bệnh nhân, từ năm 1995 đến 2001.

Kết quả:  Tỷ lệ biến chứng vết thương tổng thể sau nạo vét hạch bạch huyết bẹn (71%) cao hơn so với nạo vét hạch bạch huyết nách (47%; P = 0.05). Sau nạo vét hạch bạch huyết bẹn, tỷ lệ nhiễm trùng vết thương cao hơn (25.0%vs 5.9%; P = 0.03), vết thương lành chậm thường gặp hơn (25.0%vs 5.9%; P = 0.03), và thời gian trung bình mà ống dẫn lưu giữ in situ lâu hơn (12.5 vs 8.2 ngày; P = 0.05). Không có sự khác biệt đáng kể trong tỷ lệ dịch seroma (46%vs 32%). Lymphoedema phổ biến hơn sau nạo vét hạch bạch huyết bẹn (P < 0.02). Phân tích đa biến xác định RLND bẹn (P = 0.002) và kích thước khối u tăng lên (P = 0.045) là các yếu tố dự đoán tỷ lệ bệnh tật vết thương. Nhiều bệnh nhân nhận được xạ trị sau phẫu thuật hơn sau RLND cổ so với RLND bẹn hoặc nách (P = 0.03). Sáu (8%) bệnh nhân phát triển tái phát tại chỗ sau nạo vét hạch. Tại thời điểm theo dõi trung vị là 22 tháng, 34 (53%) bệnh nhân đã tử vong do bệnh lan tràn.

Kết luận:  Nạo vét hạch bạch huyết triệt để cho melanoma liên quan đến tỷ lệ biến chứng đáng kể. Nạo vét hạch bạch huyết bẹn có tỷ lệ biến chứng cao hơn so với nạo vét hạch bạch huyết nách. Tỷ lệ tái phát tại chỗ thấp có thể đạt được, giới hạn khả năng bệnh tật tiềm tàng của bệnh ung thư di căn khu vực không được kiểm soát.

ĐÁNH GIÁ NHANH SO VỚI ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG ĐẦY ĐỦ: TÍNH HỢP LÍ TRONG THỰC TIỄN LÂM SÀNG? Dịch bởi AI
ANZ Journal of Surgery - Tập 78 Số 11 - Trang 1037-1040 - 2008
Amber M. Watt, Alun Cameron, Lana Sturm, Timothy Lathlean, Wendy Babidge, Stephen Blamey, Karen Facey, David Hailey, Inger Natvig Norderhaug, Guy J. Maddern

Giới thiệu:  Các đánh giá nhanh đang được các cơ quan đánh giá công nghệ y tế (HTA) sản xuất với tần suất ngày càng tăng nhằm đáp ứng áp lực từ các bác sĩ lâm sàng và nhà lập chính sách cần có khuyến nghị nhanh chóng, dựa trên bằng chứng về các công nghệ chăm sóc sức khỏe. Nghiên cứu so sánh này xem xét các khác biệt về phương pháp và kết luận chính giữa các đánh giá nhanh và đánh giá đầy đủ về cùng một chủ đề, với mục đích xác định tính hợp lệ của các đánh giá nhanh trong bối cảnh lâm sàng và đưa ra các khuyến nghị cho việc áp dụng trong tương lai.

Kỹ thuật vạt da keystone trong phẫu thuật tái tạo Dịch bởi AI
ANZ Journal of Surgery - Tập 73 Số 3 - Trang 112-120 - 2003
Felix Behan

Giới thiệu: Bài báo này mô tả một kỹ thuật phẫu thuật để đóng các khuyết khi da sau khi loại bỏ ung thư da (đặc biệt là u ác tính). Việc sử dụng kỹ thuật này được minh họa qua năm bệnh nhân. Kỹ thuật đã được áp dụng trong 300 trường hợp trong suốt 7 năm qua và phù hợp cho tất cả các khu vực trên cơ thể từ da đầu đến bàn chân.

Chúng tôi đã đặt tên cho kỹ thuật này là Vạt da keystone (Keystone Design Perforator Island Flap - KDPIF) vì hình dạng của nó giống như hình thang cong mà chúng tôi mượn từ thuật ngữ kiến trúc. Vạt có hình oval với trục dài chạy song song với trục dài của khuyết. Vạt được dựa trên các mạch máu xuyên qua vị trí ngẫu nhiên. Vết thương được đóng trực tiếp, vùng giữa chính là đường căng thẳng tối đa và bằng cách tiến tiến V‐Y từ mỗi đầu của vạt, vạt ‘đảo’ lấp đầy khuyết. Điều này cho phép khuyết trên phía đối diện được đóng lại, tận dụng tính di động của mô xung quanh. Sự quan trọng của mổ tách nhọn được nhấn mạnh khi nâng những vạt đảo này vì nó duy trì tính toàn vẹn của các mạch máu xuyên qua cơ và mô liên kết cùng với các dây thần kinh và mạch máu. Vạt keystone giảm thiểu nhu cầu ghép da trong phần lớn các trường hợp và tạo ra kết quả thẩm mỹ tuyệt vời. Bốn loại vạt được mô tả: Loại I (đóng trực tiếp), Loại II (có hoặc không có ghép da), Loại III (sử dụng kỹ thuật vạt đảo đôi), và Loại IV (bao gồm quay và tiến tiến với hoặc không có ghép da). Bệnh nhân gần như không có cảm giác đau trong giai đoạn hậu phẫu. Việc di chuyển sớm là khả thi, cho phép kỹ thuật này được sử dụng cho bệnh nhân điều trị ngắn hạn.

Kết quả: Trong một loạt 300 bệnh nhân với các vạt nằm trên tay chân, thân thể và vùng mặt, việc làm lành vết thương xảy ra ở 99.6%, với một trường hợp trong số 300 bị hoại tử từng phần của vạt.

Kết luận: Kỹ thuật được mô tả trong bài viết này cung cấp một phương pháp đơn giản và hiệu quả để đóng vết thương trong những tình huống sẽ cần phải sử dụng vạt phức tạp hoặc ghép da, đặc biệt là khi điều trị u ác tính.

#kỹ thuật phẫu thuật #vạt da keystone #ung thư da #u ác tính #tái tạo da
Tổng số: 34   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4