Lợi ích của chụp cộng hưởng positron bằng fluorodeoxyglucose trong các bệnh lý ác tính của động mạch phổi giả lập thuyên tắc phổi

ANZ Journal of Surgery - Tập 83 Số 5 - Trang 342-347 - 2013
Eun Jeong Lee1, Seung Hwan Moon1, Joon Young Choi1, Kyung Soo Lee2, Yong Soo Choi3, Yearn Seong Choe1, Kyung‐Han Lee1, Byung‐Tae Kim1
1Department of Nuclear Medicine, Samsung Medical Center, Sungkyunkwan University School of Medicine, Seoul, Korea
2Department of Radiology, Samsung Medical Center, Sungkyunkwan University School of Medicine, Seoul, Korea
3Department of Thoracic and Cardiovascular Surgery, Samsung Medical Center, Sungkyunkwan University School of Medicine, Seoul, #N##TAB##TAB##TAB##TAB#Korea

Tóm tắt

Tóm tắtĐặt vấn đề

Vai trò của 18F‐fluorodeoxyglucose chụp cộng hưởng positron/computed tomography (18FFDG PET/CT) trong việc đánh giá tổn thương động mạch phổi vẫn chưa được thiết lập. Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá tính hữu ích của hình ảnh 18FFDG PET/CT trong việc phân biệt tổn thương động mạch phổi (PA) ác tính và lành tính.

Phương pháp

Trong nghiên cứu hồi cứu này, 18 bệnh nhân với 26 khiếm khuyết độ đậm độ thấp nghi ngờ ác tính on PA trên chụp CT ngực có tiêm thuốc cản quang đã được tuyển chọn; tất cả họ sau đó đều tiến hành 18FFDG PET/CT. Giá trị hấp thụ chuẩn hóa tối đa (SUVmax) cho tất cả các tổn thương PA, được định nghĩa là sự hấp thu 18FFDG, được đo. Chẩn đoán cuối cùng sau đó được xác định bởi những phát hiện giải phẫu bệnh, theo dõi chụp CT ngực hoặc theo dõi lâm sàng, và so sánh với hình ảnh PET.

Kết quả

Tổng cộng, có 6 sarcoma PA, 5 tắc mạch u và 15 thuyên tắc phổi (PTE) xảy ra ở nhóm bệnh nhân này. Không chỉ có SUVmax của các tổn thương PA ác tính (10.2 ± 10.8) cao hơn đáng kể so với PTE (1.7 ± 0.3; P < 0.001), không có sự chồng chéo giữa các nhóm. Ngược lại, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về SUVmax giữa sarcoma PA (12.8 ± 14.7) và tắc mạch u (7.0 ± 1.32; P = 1.000).

Kết luận

18FFDG PET/CT là một phương pháp hình ảnh hữu ích để phân biệt tổn thương PA ác tính và lành tính ở những bệnh nhân có các khiếm khuyết độ đậm độ thấp không rõ ràng trên chụp CT ngực có tiêm thuốc cản quang.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1056/NEJMra072753

10.2214/AJR.06.0640

10.1183/09031936.00114708

10.4103/0019-509X.40643

10.2214/AJR.05.0874

10.1016/j.athoracsur.2008.08.018

10.1016/1054-8807(92)90038-P

10.1016/S0002-9343(03)00305-X

10.1007/s12149-009-0292-y

10.1016/j.ejcts.2008.01.025

10.1097/00004728-200401000-00005

10.1097/01.rlu.0000162964.84907.3f

10.1016/S0003-4975(00)01963-9

10.1016/S0899-7071(02)00568-5

10.2169/internalmedicine.46.6292

10.1007/s00330-008-0922-0

10.1097/RLU.0b013e318187f0d7

10.1097/RLU.0b013e3181a34634

10.1097/RLU.0b013e3181966f5c

10.1097/00004728-199709000-00018

10.1097/01.rlu.0000227496.51081.9e

10.1007/s00259-004-1718-3

Choi S, 2006, Detection of superior vena cava tumor thrombus by F‐18 FDG PET/CT in recurrent hepatocellular carcinoma, Nucl. Med. Mol. Imaging, 40, 271

10.1097/01.cej.0000220641.46470.77