Vảy nến mủ là gì? Các công bố khoa học về Vảy nến mủ

"Vảy nến mủ" là một cụm từ trong tiếng Việt để mô tả việc nến đã cháy đến mức không còn nhiều nến, chỉ còn lại một lớp mỏng mủ nến. Cụm từ này thường được sử dụ...

"Vảy nến mủ" là một cụm từ trong tiếng Việt để mô tả việc nến đã cháy đến mức không còn nhiều nến, chỉ còn lại một lớp mỏng mủ nến. Cụm từ này thường được sử dụng để mô tả việc một tình huống, một sự việc hoặc một người nào đó đã trải qua rất nhiều khó khăn, gian nan và gần như đã "đến tận cùng" của mình.
Cụm từ "vảy nến mủ" có nguồn gốc từ hình ảnh một chiếc nến đã cháy đến gần cuối, chỉ còn một lớp mỏng mủ nến trên bề mặt. Việc "vảy nến mủ" tạo ra hình ảnh của sự kiệt quệ, một trạng thái gần như đến tận cùng và không còn nhiều cơ hội để tiếp tục.

Cụm từ này thường được sử dụng để miêu tả tình trạng của một người sau khi đã trải qua nhiều khó khăn, vất vả hoặc một sự việc sau khi đã trải qua khủng hoảng, gian khổ, mệt mỏi.

Ngoài ra, cụm từ "vảy nến mủ" cũng có thể ám chỉ việc một mối quan hệ, một dự án hoặc một tình huống nào đó đang trong tình trạng rơi vào sự yếu đuối, suy yếu và gần như đến hồi kết.

Trong nghệ thuật và văn hóa đương đại, cụm từ này cũng thường được sử dụng để mô tả tình trạng tinh thần, tình hình xã hội hoặc sự kiệt quệ của một phong trào, một trào lưu nghệ thuật hay một cộng đồng.
Cụm từ "vảy nến mủ" thường được sử dụng để diễn đạt tình huống cực kỳ khó khăn, nguy hiểm hoặc gần như đến hồi kết, tận cùng. Ở một số trường hợp, nó có thể được dùng để diễn đạt một đường lối cuộc sống đầy mỏi mệt hoặc một tình trạng cảm xúc uể oải, tuyệt vọng.

Cụm từ này có thể được áp dụng trong nhiều tình huống khác nhau, từ cá nhân đến tập thể, từ tình huống gần gũi hằng ngày đến các vấn đề lớn hơn trong xã hội. Nó thể hiện tâm trạng của sự kiệt quệ, suy yếu và thất bại đầu hàng trước thử thách lớn hoặc nỗi đau đằng sau nó.

Tuy nhiên, nhưng "vảy nến mủ" cũng mang theo một sự hàm ý - sau cơn sốc uất ức, sự mất mát, sau khoảnh khắc u hoài chất chồng lên nhau, có thể mở ra một tia hy vọng mới, một sự bắt đầu mới cùng với sự mạnh mẽ tiếp tục.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "vảy nến mủ":

Xác định nồng độ kẽm, đồng, canxi trong huyết thanh và mối liên quan với lâm sàng ở bệnh nhân vảy nến mụn mủ toàn thân
Mục tiêu: Đánh giá nồng độ kẽm, đồng, canxi huyết thanh ở bệnh nhân vảy nến mụn mủ toàn thân. Xác định mối liên quan giữa nồng độ kẽm, đồng, canxi huyết thanh với lâm sàng ở bệnh nhân vảy nến mụn mủ toàn thân. Đối tượng và phương pháp: 49 bệnh nhân vảy nến mụn mủ toàn thân khám tại Bệnh viện Da liễu Trung ương thời gian từ tháng 07/2019 đến tháng 04/2020, 49 người khỏe mạnh nhóm chứng với tỉ lệ 1:1 về tuổi, giới. Nghiên cứu mô tả, cắt ngang, có nhóm đối chứng. Kết quả: Nồng độ kẽm huyết thanh: 0,85 ± 0,27mg/l thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng (p<0,001). Nồng độ đồng huyết thanh: 1,32 ± 0,26mg/l, tăng có ý nghĩa (p<0,001) so với nhóm chứng. Nồng độ canxi huyết thanh: 109,49 ± 11,15mg/l không khác biệt so với nhóm chứng (p>0,05). Không có mối liên quan giữa nồng độ kẽm, đồng, canxi với tuổi, giới, thời gian mắc bệnh, mức độ bệnh ở bệnh nhân vảy nến mụn mủ toàn thân. Kết luận: Ở bệnh nhân vảy nến mụn mủ toàn thân, nồng độ kẽm huyết thanh giảm, nồng độ đồng tăng, trong khi nồng độ canxi giảm không có ý nghĩa và không thấy mối liên quan giữa nồng độ các chất này với các yếu tố lâm sàng: Tuổi, giới, thời gian mắc bệnh và mức độ bệnh.
#Vảy nến mụn mủ toàn thân #đồng #kẽm #canxi
Mức độ cải thiện chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân vảy nến điều trị bằng thuốc sinh học so với điều trị bằng các phương pháp thông thường tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh
Mục tiêu: So sánh mức độ cải thiện chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân vảy nến điều trị bằng thuốc sinh học với bệnh nhân điều trị bằng các phương pháp thông thường khác. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang có phân tích, so sánh mức độ cải thiện ở hai nhóm. Nhóm 1 có 31 bệnh nhân sử dụng thuốc sinh học bao gồm secukinumab và ustekinumab. Nhóm 2 có 31 bệnh nhân được điều trị bằng các thuốc thoa hoặc thuốc uống cổ điển. Theo dõi chỉ số chất lượng cuộc sống ở 2 nhóm tại 3 thời điểm: Đánh giá ban đầu, sau 1 tháng và sau 3 tháng điều trị. Sử dụng bảng đánh giá chất lượng cuộc sống (DLQI) gồm 10 câu hỏi đánh giá ảnh hưởng đến các vấn đề sức khỏe thể chất, công việc, sinh hoạt từ mức độ không ảnh hưởng đến ảnh hưởng rất nhiều (từ 0 - 3 điểm cho mỗi câu hỏi) được chuẩn hóa tiếng Việt. Kết quả: Nhóm 1 và nhóm 2 có tuổi, giới, nghề nghiệp, tuổi khởi phát, BMI tương đồng nhau. Chỉ số PASI nhóm 1 là 27,19 ± 9,54 cao hơn nhóm 2 (16,42 ± 7,76), khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Tại thời điểm T1 và T3 chỉ số PASI ở nhóm 1 cải thiện đáng kể so với nhóm 2 và sự khác biệt ở hai nhóm đều có ý nghĩa thống kê. Mối tương quan giữa DLQI và PASI ở nhóm 1 có ý nghĩa thống kê tại T0 (p=0,02) và T3 (p<0,0001). DLQI ở T0 của nhóm 1 (20,65 ± 6,41) cao hơn nhóm 2 (9,55 ± 6,45) (p<0,001). Tại T1 và T3, nhóm 2 có chỉ số DLQI gần như không thay đổi, trong khi đó DLQI nhóm 1 giảm nhiều, lần lượt là 9,48 ± 4,22, 3,97 ± 3,23 và khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy bệnh nhân vảy nến được điều trị bằng thuốc sinh học cải thiện chất lượng cuộc sống nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân được điều trị bằng các phương pháp thông thường khác. Từ khóa: Vảy nến, thuốc sinh học, chất lượng cuộc sống.  
#Vảy nến #thuốc sinh học #chất lượng cuộc sống
NỒNG ĐỘ CRP, ALBUMIN VÀ GLOBULIN HUYẾT THANH VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI MỨC ĐỘ BỆNH VẢY NẾN THÔNG THƯỜNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Xác định nồng độ CRP, albumin, globulin huyết thanh của bệnh nhân vảy nến thông thường (VNTT) và mối liên quan với mức độ bệnh. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang; gồm 2 nhóm: Nhóm nghiên cứu 55 bệnh nhân nhómVNTT; 55 người khỏe mạnh ở nhóm đối chứng tại Bệnh viện Da liễu Trung ương. Kết quả: Nhóm nghiên cứu tăng  nồng độ CRP huyết thanh và tỷ lệ CRP/Albumin huyết thanh tăng cao hơn nhóm đối chứng (p<0,001) và có liên quan thuận với mức độ bệnh. Ngược lại, nồng độ albumin huyết thanh nhóm nghiên cứu (39.41 ± 3,74g/l) giảm so với nhóm đối chứng (42.21±2,46 g/l) với p <0,001 và có mối liên quan nghicchj với mức độ bệnh. Nồng độ globulin huyết thanh giữa nhóm VNTT (30.09 ± 3.19g/l) và nhóm đối chứng (29.11 ± 3.16g/l) là tương đương nhau (p>0,05). Kết luận: Có sự tăng nồng độ CRP và tỷ lệ CRP/Albumin huyết thanh, giảm nồng độ albumin huyết thanh bệnh nhân VNTT và sự thay đổi có liên quan với mức độ bệnh.
#nồng độ CRP #nồng độ albumin #tỷ lệ CRP/Albumin huyết thanh #nồng độ globulin #bệnh vảy nến thông thường
NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI NỒNG ĐỘ MỘT SỐ CYTOKIN Ở BỆNH VẨY NẾN THÔNG THƯỜNG MỨC ĐỘ NẶNG TRƯỚC VÀ SAU ĐIỀU TRỊ BẰNG CYCLOSPORIN A
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Xác định sự thay đổi nồng độ các cytokin IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, INF-g, TNF-α của bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ nặng trước và sau điều trị bằng Cyclosporin A. Đối tượng và phương pháp: 35 bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ nặng điều trị ngoại  trú tại phòng khám chuyên đề bệnh vảy nến-bệnh viện Da liễu trung ương từ 10/2016-10/2019 được định lượng nồng độ các cytokine IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, INF-g, TNF- α trong huyết thanh trước và sau điều trị bằng Cyclosporin A. Kết quả: Nồng độ các cytokine IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF- α  trước và sau điều trị thay đổi không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05, tuy nhiên nồng độ INF-g huyết thanh sau điều trị đã giảm có ý nghĩa thống kê, với p<0,05. Kết luận: Sau 10 tuần điều trị bệnh vảy nến thông thường mức độ nặng bằng uống Cyclosporin A liều 2,5 – 3mg/kg/ngày thì nồng độ một số cytokine IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF- α huyết thanh chưa thay đổi. Tuy nhiên nồng độ INF-g sau điều trị giảm rõ rệt.
#Bệnh vảy nến thông thường mức độ nặng #interleukin 2 #6 #8 #10 #12 #17 #INF- #TNF- α.
Vảy nến thể mủ toàn thân sau tiêm vaccin ngừa SARS-CoV-2: Trường hợp lâm sàng
Vảy nến thể mủ toàn thân (generalized pustular psoriasis) là một thể lâm sàng nặng của bệnh vảy nến, có thể đe dọa đến tính mạng với nhiều yếu tố làm kích hoạt bệnh như thuốc, viêm nhiễm. Tuy nhiên, vaccin hiếm khi được báo cáo làm khởi phát bệnh vảy nến thể mủ toàn thân. Trên sự quan sát và các tài liệu đã nghiên cứu, chúng tôi báo cáo 1 trường hợp bệnh bị bùng phát vảy nến thể mủ toàn thân sau tiêm vaccin ngừa COVID-19 mARN. Đây là bệnh nhân bùng phát vảy nến thể mủ toàn thân sau tiêm mũi 2 vaccin ngừa COVID-19 đầu tiên mà chúng tôi gặp trên lâm sàng.
#COVID-19 #COVID-19 vaccin #vảy nến thể mủ toàn thân #mARN
Nghiên cứu hiệu quả điều trị, tính an toàn và khả năng dung nạp của methotrexate trong điều trị viêm khớp vảy nến
Mục tiêu: Khảo sát hiệu quả điều trị, tính an toàn và khả năng dung nạp của methotrexate trong điều trị viêm khớp vảy nến. Đối tượng và phương pháp: Tiến cứu, thử nghiệm lâm sàng, lấy mẫu thuận tiện của 37 bệnh nhân viêm khớp vảy nến được điều trị tại Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 1/2016 đến tháng 3/2017, với liều methotrexate là 10mg - 15mg/tuần. Kết quả và kết luận: Đặc điểm mẫu nghiên cứu: Nữ/nam là 2/1; tuổi mắc bệnh trung bình là 48 (13). Gần 3/4 bệnh nhân vảy nến ở da là biểu hiện đầu tiên của viêm khớp vảy nến. Viêm khớp ngoại vi chiếm tỷ lệ cao (81,08%). Biến dạng khớp chiếm tỷ lệ 37%. Thời gian mắc viêm khớp 0,83 (0,08 - 2,91) năm. Kháng nguyên phù hợp tổ chức HLA B27 và DR7 dương tính tỷ lệ tương đương nhau chiếm 32,43%, chỉ có 1 trường hợp HLA Cw06 dương tính chiếm 2,7%.  Phần lớn viêm khớp mức độ hoạt động trung bình (59,38%), và 25,0% trường hợp ở mức độ nặng. Tốc độ lắng hồng cầu (ESR) cao với trị số trung vị 50 (14 - 158) (mm/1 giờ). Điều trị bằng methotrexate cải thiện rõ rệt mức độ hoạt động viêm khớp sau 12 tuần điều trị (trước điều trị DAS28 là 4,3 ± 1, ở tuần 12 là 3,0 ± 1,0); ở tuần thứ 12 tỷ lệ lui bệnh theo tiêu chuẩn DAS28 - EURLA là 37,84%. Chỉ số PASI-50 đạt hơn phân nửa ở tuần thứ 12. Không có tác dụng bất lợi về mặt lâm sàng cũng như các chỉ số của công thức máu. Chỉ có 1 trường hợp men gan SGPT tăng cao nhưng không có biểu hiện lâm sàng ở tuần thứ 12 và ngưng điều trị.
#Viêm khớp vảy nến #mức độ hoạt động viêm khớp vảy nến
VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH INTERLEUKIN-36 TRONG CƠ CHẾ BỆNH SINH VẢY NẾN THỂ MỦ TOÀN THÂN
Tạp chí Da liễu học Việt Nam - Số 35 - Trang 105-110 - 2022
Vảy nến là một bệnh da mạn tính thường gặp, chiếm khoảng 2% dân số thế giới.1 Vảy nến thể mủ là thể đặc biệt của bệnh với hai dạng là khu trú và toàn thân, trong đó vảy nến thể mủ toàn thân (generalized pustular psoriasis - GPP) được coi là nặng nhất.1,2 Trong khi các dạng vảy nến khác như viêm khớp vảy nến (psoriatic arthritis), vảy nến mảng (plaque psoriasis)… đã có những liệu pháp sinh học (biotherapy) rất hiệu quả và an toàn, thì GPP – thể nặng nhất, đến nay vẫn chưa có một thuốc sinh học nào chứng tỏ được tính ưu việt để được chấp thuận rộng rãi .1,2,3 Trong những năm gần đây, vai trò của gia đình interleukin (IL)-36 (IL-36 family) trong cơ chế bệnh sinh của vảy nến thể mủ toàn thân đã được chứng minh thông qua các nghiên cứu in vitro và in vivo4,5. Ngoài ra, một số nghiên cứu về hiệu quả của điều trị đích nhắm vào IL-36 ở bệnh nhân GPP cũng cho kết quả bước đầu rất khả quan.
Đánh giá kết quả điều trị bệnh vảy nến mụn mủ bằng acitretin
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị bệnh vảy nến mụn mủ bằng acitretin. Đối tượng và phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng so sánh trước và sau điều trị, 30 bệnh nhân vảy nến mụn mủ điều trị tại Bệnh viện Da liễu Trung ương và Khoa Da liễu dị ứng, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, từ tháng 3/2017- 12/2018. Kết quả: 86,67% bệnh nhân có kết quả tốt. Urê, triglycerid, GOT, GPT tăng lên sau điều, tuy nhiên không bệnh nhân nào phải dừng thuốc. Tác dụng không mong muốn: 100% bệnh nhân có viêm môi, 96,7% khô da, bong vảy da. Kết luận: Acitretin có tác dụng tốt trong điều trị vảy nến mụn mủ.   Từ khóa: Điều trị vảy nến mụn mủ, vảy nến mụn mủ toàn thân, acitretin.
#Điều trị vảy nến mụn mủ #vảy nến mụn mủ toàn thân #acitretin
Tổng số: 23   
  • 1
  • 2
  • 3