Stent graft là gì? Các công bố khoa học về Stent graft
Stent graft là một loại thiết bị y tế được sử dụng trong điều trị các vấn đề liên quan đến mạch máu, đặc biệt là trong trường hợp bị mở rộng hoặc bị suy yếu. Nó...
Stent graft là một loại thiết bị y tế được sử dụng trong điều trị các vấn đề liên quan đến mạch máu, đặc biệt là trong trường hợp bị mở rộng hoặc bị suy yếu. Nó có thể được sử dụng để điều trị các bệnh như bệnh động mạch vành, bệnh tắc động mạch và bệnh động mạch chủ. Stent graft bao gồm một lưới kim loại (stent) bọc trong một vật liệu mềm (graft), và nó được đặt qua một quá trình gọi là phẫu thuật cắt mở hay thông qua phương pháp các thủ thuật không xâm lấn như cắt qua da. Stent graft có vai trò hỗ trợ và tăng cường mạch máu bị suy yếu, từ đó cải thiện tuần hoàn máu và giảm nguy cơ các biến chứng mạch máu.
Stent graft là một thiết bị y tế được sử dụng để điều trị các vấn đề về mạch máu, đặc biệt là trong trường hợp các động mạch (mạch máu lớn) bị mở rộng hoặc suy yếu. Các bệnh thường được điều trị bằng stent graft bao gồm:
1. Bệnh động mạch vành: Đây là trạng thái khi các động mạch chở máu đến cơ tim bị mở rộng hoặc tắc nghẽn, gây ra các triệu chứng như đau ngực và khó thở. Stent graft được sử dụng để mở rộng các động mạch vành cảnh báo và khôi phục lại dòng máu chảy điều chỉnh đến cơ tim.
2. Bệnh động mạch chủ: Đây là trạng thái khi động mạch chủ, đường mạch chính chuyên chở máu từ tim đến các bộ phận khác của cơ thể, bị mở rộng hoặc tắc nghẽn. Stent graft có thể được sử dụng để khắc phục sự định hình bất thường trong động mạch, bảo vệ chúng tránh nguy cơ giãn nở và tăng cường dòng máu điều chỉnh.
Quá trình đặt stent graft thông qua phẫu thuật có thể được thực hiện bằng cách cắt mở hoặc thông qua các thủ thuật không xâm lấn như cắt qua da (endovascular). Trong phẫu thuật cắt mở, một cụm stent graft được chích vào vị trí mở rộng của mạch máu và sau đó được cường độ bên trong để giữ và khắc phục sự bất thường trong các động mạch. Trong phương pháp endovascular, stent graft được đặt thông qua các ống thông qua đường mau và đưa đến vị trí cần phục hồi.
Stent graft thường được làm từ một lưới kim loại, ví dụ như chất nhôm titanium, và được bọc bởi một lớp vật liệu mềm như polytetrafluoroethylene (PTFE) hoặc polyester. Vật liệu mềm này giúp ngăn ngừa sự xé rách của động mạch và tạo ra một bề mặt trơn đãn, giảm nguy cơ hình thành cục máu hay sự hình thành tụ máu.
Stent graft có vai trò hỗ trợ và tăng cường động mạch bị suy yếu, từ đó cải thiện tuần hoàn máu và giảm nguy cơ biến chứng về mạch máu như chảy máu nội mạch, phình hạt mạch (aneurysm) hay tắc nghẽn động mạch. Bằng cách phục hồi dòng máu điều chỉnh trong các động mạch, stent graft giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh và giảm nguy cơ tử vong.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "stent graft":
Sự phát triển của sự dung nạp giữa ghép và chủ sau khi ghép tủy xương (BMT) rất quan trọng để tránh các vấn đề liên quan đến bệnh ghép chống chủ (GVHD) và sự thải ghép. GVHD có thể được loại bỏ bằng cách làm sạch các tế bào T trưởng thành từ người cho trong mảnh ghép tủy xương, từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển của sự dung nạp ghép-chủ. Tuy nhiên, việc làm giảm tế bào T thường dẫn đến việc gia tăng tỷ lệ thải ghép và gia tăng tính lặp lại của bệnh bạch cầu. Do đó, mặc dù sự dung nạp ghép-chủ là một kết quả mong muốn, nhưng nó có thể đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng đối với những chủ thể mang bệnh bạch cầu. Sử dụng mô hình ghép tủy xương đồng huyết lệ thuộc vào sự tương hợp của phức hợp chính về khả năng tương thích mô (MHC) (B10.BR vào AKR), chúng tôi nhận thấy rằng những người nhận đã bị chiếu xạ chỉ nhận mảnh ghép tủy xương từ người cho đã thể hiện sự chimera T-cell hỗn hợp và không phát triển GVHD. Sự dung nạp ghép-chủ phát triển vào 8 tuần sau BMT ở những chimera này, và họ có nguy cơ đối diện với thách thức bệnh bạch cầu liều thấp. Khi một số lượng lớn tế bào lách từ người cho, là nguồn cung cấp tế bào T, được bổ sung vào mảnh ghép tủy xương, các chủ thể AKR đã phát triển GVHD nghiêm trọng và gây tử vong. Các tế bào T phản ứng chống lại chủ đã tồn tại trong những chimera đang trải qua GVHD, cho thấy rằng sự dung nạp ghép-chủ không phát triển. Khi việc bổ sung tế bào lách bị trì hoãn từ 7 đến 21 ngày sau BMT, số ca tử vong do GVHD đã giảm đáng kể. Ngày 21 là thời điểm tối ưu để truyền tế bào mà không phát triển GVHD. Sự dung nạp ghép-chủ đã bị phá vỡ do việc truyền tế bào hiến tặng bị trì hoãn, như được chỉ ra bởi sự tồn tại của các tế bào T phản ứng chống lại chủ trong những chimera này trong các thử nghiệm liên kết thụ thể T-cell và phản ứng bạch cầu hỗn hợp. Quan trọng là, sự tồn tại của các tế bào T phản ứng chống lại chủ tương quan với hiệu ứng chống ung thư lâu dài vẫn còn tồn tại khi ở 100 ngày sau khi ghép. Nhiều lần truyền tế bào hiến tặng vẫn có thể được thực hiện mà không làm tăng nguy cơ GVHD nếu được trì hoãn đến 21 ngày sau BMT. Các lần truyền tế bào lách của người cho cũng dẫn đến hiệu ứng chống ung thư lâu dài mà không có GVHD trong mô hình ghép tủy xương không tương hợp MHC (SJL vào [SJL x AKR]F1). Mặc dù việc truyền muộn các tế bào hiến tặng bình thường không gây ra GVHD, tế bào lách từ những người cho đã được nhạy cảm trước với giống ghép A-lo của chủ đã gây ra GVHD khi được truyền 21 ngày sau BMT. Do đó, khả năng của các tế bào đã được kích hoạt trước đó trong việc gây ra GVHD không bị ức chế theo cách mà các tế bào chưa hoạt động bị ức chế. Kết quả từ các thử nghiệm phân tích pha loãng hạn chế chỉ ra rằng các tế bào T CD4+ sản sinh interleukin-2 được kích hoạt A-lo đã bị ức chế ưu tiên hơn so với các tế bào T tế bào chết (cytolytic T cells).(TÓM TẮT BỊ CẮT NGẮT TẠI 400 TỪ)
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10