Sledai là gì? Các công bố khoa học về Sledai

Sledai là một từ viết tắt tiếng Anh, viết tắt của 'Social, Legal, Economic, Disability, Activities, and Impact Assessment'. Đây là một phương pháp đánh giá tác ...

Sledai là một từ viết tắt tiếng Anh, viết tắt của 'Social, Legal, Economic, Disability, Activities, and Impact Assessment'. Đây là một phương pháp đánh giá tác động xã hội, pháp lý, kinh tế, tình trạng khuyết tật và hoạt động của một dự án, chương trình hoặc chính sách. Phương pháp sledai giúp đánh giá tác động của một dự án đến các yếu tố xã hội, pháp lý, kinh tế, khuyết tật và hoạt động cụ thể, giúp tối ưu hóa kết quả và giảm thiểu những tác động tiêu cực.
Phương pháp SLEDAI (Social, Legal, Economic, Disability, Activities, and Impact Assessment) giúp đánh giá tác động của một dự án, chương trình hoặc chính sách từ nhiều khía cạnh khác nhau, để có cái nhìn tổng thể về các yếu tố liên quan. Dưới đây là mô tả chi tiết về từng yếu tố:

1. Social (Xã hội): Đánh giá tác động của dự án đến môi trường xã hội, bao gồm tác động đến cộng đồng, các nhóm dân cư, văn hóa, giáo dục, sức khỏe, an sinh xã hội và các vấn đề xã hội khác. Ví dụ: tác động đến việc làm, tỷ lệ nghèo đói, phân tầng xã hội, tương tác văn hóa,..

2. Legal (Pháp lý): Đánh giá tác động của dự án đến việc tuân thủ pháp luật và các quy định về môi trường, tài chính, lao động, quyền lợi công dân, v.v. Phần này thường liên quan đến việc xác định xem dự án có tuân thủ và tuân thủ pháp luật địa phương, quốc gia hay không.

3. Economic (Kinh tế): Đánh giá tác động của dự án đến mặt bằng kinh tế, tạo ra nhưng tương quan kinh tế, tạo ra thu nhập, cung cấp việc làm, tạo nền kinh tế bền vững và hỗ trợ phát triển địa phương.

4. Disability (Khuyết tật): Đánh giá tác động của dự án đến việc khuyết tật và sự hỗ trợ đối với các cá nhân có khuyết tật. Các yếu tố như truy cập, tích hợp xã hội và hỗ trợ cho người khuyết tật được xem xét trong phạm vi này.

5. Activities (Hoạt động): Đánh giá tác động của dự án đến các hoạt động và quá trình thực hiện của nó. Điều này đảm bảo rằng dự án được triển khai theo đúng kế hoạch, đáp ứng được các mục tiêu và mang lại hiệu quả sau khi hoàn thành.

6. Impact (Tác động): Đánh giá tác động tổng quan của dự án, bao gồm cả các tác động trực tiếp và gián tiếp. Điều này giúp xác định những biến đổi, kết quả và tác động có thể xảy ra do dự án và tìm ra cách để tối đa hóa hiệu quả và giảm thiểu những tác động tiêu cực.

SLEDAI tổng hợp các yếu tố trên để đánh giá tác động xã hội, pháp lý, kinh tế, khuyết tật và hoạt động của một dự án. Qua đó, có thể xác định các cải tiến và điều chỉnh cần thiết để đảm bảo dự án hoạt động đúng và có tác động tích cực đến cộng đồng và môi trường xung quanh.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sledai":

Derivation of the sledai. A disease activity index for lupus patients
Wiley - Tập 35 Số 6 - Trang 630-640 - 1992
Abstract

Objective. To standardize outcome measures in systemic lupus erythematosus (SLE). Three indices were identified which could adequately describe outcome (disease activity, damage from disease, and health status); we describe here the development of the Disease Activity Index.

Methods. Twenty‐four variables were identified as important factors in a disease activity index. These were used to generate 574 patient profiles, which were rated on a disease activity scale of 0–10 by 14 rheumatologists. A second rating of 10 of the profiles yielded scores that were not significantly different from the first, indicating that experienced clinicians can reliably make global estimates of disease activity. Multiple regression models were used to estimate the relative importance of the 24 clinical variables in the physicians' global rating of disease activity. These were estimated on a ‘training set’ of 75% of physicians' ratings, and then validated on a ‘testing set,’ consisting of the remaining 25% of physicians' ratings.

Results. The explanatory power of the models in the training set was high (R2 = 0.93). The models' regression coefficients for the organ systems were simplified for easier use in clinical practice. This generated a ‘weighted’ index of 9 organ systems for disease activity in SLE, the SLEDAI, as follows: 8 for central nervous system and vascular, 4 for renal and musculoskeletal, 2 for serosal, dermal, immunologic, and 1 for constitutional and hematologic. The maximum theoretical score is 105, but in practice, few patients have scores greater than 45. The SLEDAI predicted well the physicians' ratings in the testing set (Pearson's correlation coefficients = 0.64–0.79).

Conclusion. The SLEDAI is a validated model of experienced clinicians' global assessments of disease activity in lupus. It represents the consensus of a group of experts in the field of lupus research.

Sự liên kết lâm sàng và huyết thanh của mức plasma 25-hydroxyvitamin D (25(OH)D) trong bệnh lupus và hiệu quả ngắn hạn của việc bổ sung vitamin D đường uống Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC -
Tóm tắt Đặt vấn đề và mục tiêu

Dữ liệu về sự liên kết giữa mức vitamin D và hình thái lâm sàng cũng như hoạt động bệnh trong bệnh lupus ban đỏ hệ thống (SLE) là gây tranh cãi. Hơn nữa, liều lượng tối ưu của việc bổ sung vitamin D đường uống trong SLE không rõ ràng. Do đó, nghiên cứu hiện tại được thiết kế để xác định sự liên kết giữa mức vitamin D trong huyết tương với hình thái lâm sàng, các biến bệnh và huyết thanh học trong một nhóm lớn bệnh nhân SLE từ Nam Á và đánh giá hiệu quả ngắn hạn của hai chế độ liều khác nhau của việc bổ sung vitamin D đường uống đối với các cơn bùng phát bệnh và mức vitamin D trong huyết tương.

Phương pháp

Đây là một nghiên cứu hai giai đoạn. Giai đoạn I là một nghiên cứu phân tích cắt ngang về các bệnh nhân từ miền bắc (26.85° Bắc) và miền nam Ấn Độ (11.94° Bắc). Mức plasma 25-hydroxyvitamin-D(25(OH)D) được đo lường và sự liên kết của nó với nhân khẩu học, huyết thanh học, hoạt động bệnh, Galectin-9 và CXCL-10 được phân tích. Trong giai đoạn II, những bệnh nhân có chỉ số SLEDAI-2KG < 10 và đang được kiểm soát miễn dịch ổn định được ngẫu nhiên để nhận hoặc liều cao (60.000 U*5 hàng tuần, tiếp theo là 60.000 U hàng tháng) hoặc liều thông thường (30.000 U hàng tháng) của vitamin D đường uống. Kết quả được đánh giá sau 6 tháng.

Kết quả

Giai đoạn I bao gồm 702 bệnh nhân với độ tuổi trung bình là 29.46 + 10.7 năm. Mức vitamin D trong huyết plasma trung bình là 22.83 (13.8–31.8) ng/ml. Thiếu hụt (< 20 ng/ml) được thấy ở 41.5% bệnh nhân. Bệnh nhân từ miền Nam Ấn Độ có mức vitamin D cao hơn (27.06 ± 20.21 ng/dl) so với miền Bắc Ấn Độ (17.15 ± 16.07 ng/ml) (p < 0.01). Phân tích đơn biến cho thấy sự tương quan âm yếu giữa vitamin D với SLEDAI2K và tương quan dương với độ tuổi. Galactin-9 có sự tương quan khiêm tốn với SLEDAI2K nhưng không với mức vitamin D. Trong hồi quy tuyến tính đa biến, nơi thu hút (β = 4.37) và độ tuổi (β = 0.18) dự đoán (p < 0.05) mức vitamin D trong huyết plasma.

Trong giai đoạn II, 91 bệnh nhân được ngẫu nhiên vào 2 nhóm đã hoàn thành 6 tháng. Sự thay đổi trung vị về mức vitamin D trong huyết plasma nhiều hơn ở nhóm liều cao (9.5 so với 2.6 ng/ml; p = 0.04). Có 14 cơn bùng phát SLE và sáu biến cố bất lợi nhỏ xảy ra cho cả hai nhóm.

Kết luận

Thiếu hụt vitamin D là phổ biến trong bệnh SLE. Vị trí địa lý nơi cư trú là yếu tố chính quyết định hơn là hoạt động bệnh. Các protein điều hòa IFN phản ánh hoạt động bệnh mà không phụ thuộc vào mức vitamin D. Việc bổ sung vitamin D đường uống liều cao dường như an toàn và hiệu quả hơn trong việc cải thiện mức vitamin D trong SLE.

Đăng ký thử nghiệm

Giai đoạn thứ hai của nghiên cứu này đã được đăng ký là nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng CTRI/2019/06/019658 [được đăng ký vào: 14/06/2019].

#Vitamin D #bệnh lupus ban đỏ hệ thống #huyết thanh học #bổ sung đường uống #SLEDAI #hiệu quả ngắn hạn
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN LUPUS BAN ĐỎ HỆ THỐNGCÓ KHÁNG THỂ ANTI-SMITH DƯƠNG TÍNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống có kháng thể anti-Smith dương tính. Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 118 bệnh nhân được chẩn đoán lupus ban đỏ hệ thống theo tiêu chuẩn SLICC 2012 điều trị tại Trung Tâm Dị Ứng Miễn Dịch Lâm Sàng Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 7/2020 đến tháng 9/2021. Kết quả: 51.7% bệnh nhân có kháng thể anti-Sm dương tính; tập trung chủ yếu trong độ tuổi sinh đẻ; tỷ lệ nữ/nam là 9.7:1; tuổi trung bình là 31.53 ± 11.786 tuổi. Kháng thể anti-Sm dương tính liên quan đến giảm bổ thể C4 (p<0.001); không liên quan đếnban da cấp tính (p=0.057), loét niêm mạc (p=0.103), viêm khớp (p=0.374), tràn dịch màng tim (p=0.243), tràn dịch màng phổi (p=0.426), viêm khớp(p= 0.374), tổn thương thận ở mức viêm cầu thận hoặc hội chứng thận hư (p=0.579), giảm bạch cầu (p=0.582), giảm tiểu cầu (p=0.347), giảm bổ thể C3 (p=0.078) và kháng thể kháng chuổi kép dsDNA dương tính (p=0.187).Điểm SLEDAI trung bình ở hai nhóm dương tính và âm tính (lần lượt là 13.39± 5.499 và 12.95 ± 6.659) không có sự khác biệt với p=0.691. Kết luận: Có mối liên quan giữa kháng thể anti-Sm dương tính với giảm nồng độ bổ thể và hiện tượng Raynaud. Chưa thấy mối liên quan giữa kháng thể anti-Sm với mức độ hoạt động bệnh và tổn thương các cơ quan ở bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống.
#Lupus ban đỏ hệ thống #kháng thể anti-Smith #biểu hiện lâm sàng #tổn thương cơ quan #SLEDAI
Nghiên cứu sự biến đổi nồng độ interleukin-6, TNF-α huyết thanh và mối tương quan với chỉ số SLEDAI trên bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống
Mục tiêu: Tìm hiểu sự biến đổi nồng độ IL-6, TNF-α huyết thanh và mối tương quan với chỉ số SLEDAI trên bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, có so sánh nhóm chứng trên 105 bệnh nhân đợt cấp lupus ban đỏ hệ thống (SLE) nằm điều trị tại Trung tâm Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng, Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 4/2014 đến tháng 12 năm 2014 và 31 người khỏe mạnh làm chứng. Kết quả: Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân SLE là 30,49 ± 13,01 tuổi, nhóm chứng là 33,84 ± 7,96 tuổi. Tỷ lệ nữ/nam là 10,66. Chỉ số SLEDAI (mức độ hoạt động của bệnh SLE) > 12 điểm chiếm tỷ lệ 69,53% và SLEDAI từ 6 - 12 điểm chiếm tỷ lệ 29,52%. Nồng độ trung bình của IL-6 huyết thanh nhóm bệnh nhân SLE: 13,06 ± 21,45pg/ml, TNF-α là 52,09 ± 47,17pg/ml cao hơn hẳn so với nhóm chứng IL-6 là 1,3 ± 1,83pg/ml và TNF-α là 5,62 ± 5,8pg/ml, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Có mối tương quan giữa IL-6 và TNF-α với chỉ số SLEDAI, hệ số tương quan lần lượt là r = 0,3 và 0,31 (p<0,05). Kết luận: Nồng độ trung bình của IL-6 (13,06 ± 21,45pg/ml) và TNF-α (52,09 ± 47,17pg/ml) huyết thanh của bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống đợt cấp cao hơn hẳn so với nhóm chứng (IL-6: 1,3 ± 1,83pg/ml, TNF-α: 5,62 ± 5,8pg/ml). Có mối tương quan giữa nồng độ IL-6 và TNF-α với mức độ hoạt động của bệnh (chỉ số SLEDAI) với r = 0,3 và 0,31. Từ khóa: Cytokin, interleukin-6, TNF-α, lupus ban đỏ hệ thống (SLE).
#Cytokine #interleukin-6 #TNF-α #lupus ban đỏ hệ thống (SLE)
Assessment of SLEDAI Score in Children with Lupus Nephritis Class III-IV in Vietnam National Children’s Hospital
This study describes clinical, paraclinical characteristics and treatment response in children with nephritis class II-IV caused by systemic lupus erythematosus and validates SLEDAI for the evaluation of disease activity and the appropriate treatment strategy. A cross-sectional descriptive study was carried out on 40 children, 37 girls (92%) and 3 boys (8%), with an average age of 11.7 years with lupus nephritis class III- IV in Vietnam National Children’s Hospital in 2019. The study results show that the average score of SLEDAI in the children with pericardial and pleural effusions was 20.94 ± 4.09; high blood pressure, 20.89 ± 4.23; and gross hematuria, 20.29 ± 5.03, which were higher than those in children without these manifestations with p< 0.05. The most common kidney manifestations were nephrotic-range nephritis with renal failure (40%) and Glomerulonephritis (35%), corresponding to an average SLEDAI score of 24.25 ± 5.52 and 24.33 ± 3.2, respectively (p = 0.001). SLEDAI had an inverse correlation with the C3 complement value (r -0.315, p <0.05). The average SLEDAI score decreased gradually from 18.75 ± 4.22 to 3.38 ± 3.95 points (p <0.001) after 12 months of treatment.  The study concludes that SLEDAI score was higher in patients with pleural and/or pericardial effusions, hypertension and gross hematuria, nephrotic-range nephritis with kidney failure or glomerulonephritis. SLEDAI score corresponded with the C3 complement value and the average SLEDAI score decreased gradually with treatment. Keywords: Lupus Nephritis class III- IV, SLEDAI. References [1] George Bertsias, Ricard Cervera và Dimitrios T Boumpas, Systemic Lupus Erythematosus: Pathogenesis and Clinical Features<sample chapter 20_mod 17_Systemic Lupus nephritis 2012.pdf> (2012), EULAR Textbook on Rheumatic Diseases, EULAR, 476-505.[2] D.M. Levy and S. Kamphuis, Systemic lupus erythematosus in children and adolescents. Pediatr Clin North Am59(2) (2012)345-64.[3] Thai Thien Nam, 2018, Lupus in National Children,s Hospital, [4] C.Bombardier, M.B. Hurwitz et al, Derivation of the SLEDAI: A disease activity index for lupus patients. The committee on prognosis studies in SLE, Arthritis Rheum 35(6) (1992) 630-640.[5] R. Shamim, S. Farman, S. Batool et al, Association of systemic lupus erythematosus disease activity index score with clinical and laboratory parameters in pediatric onset systemic lupus erythematosus. Pak J Med Sci. 36(3) (2020) 467-472.[6] Le Thuy Hang, Assesment of SLEDAI score and panthology in children with lupus nephritis, 2016, Pediatrician thesis, Hanoi Medical University.[7] S.K.S.M. Nazri, K.K. Wong and W.Z.W.A. Hamid, Pediatric systemic lupus erythematosus. Retrospective analysis of clinico-laboratory parameters and their association with Systemic Lupus Erythematosus Disease Activity Index score, Saudi Med J. 39(6) (2018) 627-631. [8] Nguyen Thuy Duong, clinical, paraclinical and pathology characteristics in children with nephritis caused by systemic lupus erythematosus, 2011, Master thesis, Hanoi Medical University.[9] S.N. Wong, W.K. Chan, J.Hui et al, Membranous lupus nephritis in Chinese children--a case series and review of the literature. Pediatr Nephrol, 24(10)(2009) 1989-1996.[10] N.T.N. Dung, H.T. Loan, S. Nielsen et al, Juvenile systemic lupus erythematosus onset patterns in Vietnamese children: a descriptive study of 45 children. Pediatric Rheumatology Online Journal, 10 (2010) 38-48.[11] T. Pusongchai, J. Jungthirapanich, S. Khositseth, Pediatric Systemic Lupus Erythematosus in Thammasat University Hospital, J Med Assoc Thai. 93(12) (2010) 283-290.    
ĐÁNH GIÁ NỒNG ĐỘ ACID URIC MÁU Ở BỆNH NHÂN VIÊM THẬN LUPUS VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Khảo sát nồng độ acid uric máu ở bệnh nhân viêm thận Lupus và tìm hiểu mối liên quan giữa tăng acid uric máu và một số yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng ở nhóm bệnh nhân. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu và tiến cứu trên 117 bệnh nhân viêm thận lupus điều trị tại Trung tâm Thận – Tiết niệu và lọc máu bệnh viện Bạch Mai từ tháng 01/2020 đến 08/2021. Kết quả: 117 bệnh nhân nghiên cứu có tuổi trung bình là 34.6 ± 1.11, với tỷ lệ nam/nữ là 1/9.64 và 35.9% bệnh nhân phát hiện bệnh trong 1 tháng. Tỷ lệ tăng acid uric máu chiếm 75.2%, nồng độ trung bình là 463.60 ± 1.03. Tỷ lệ tăng acid uric ở nữ cao hơn nam có ý nghĩa thống kê (p<0.01) nhưng nồng độ acid uric ở 2 giới thì không có sự khác biệt (p>0.05). Các triệu chứng như tràn dịch màng tim (57.7%), tăng huyết áp (56.4%), hội chứng thận hư (57.3%), thiếu máu (87.2%) có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm tăng acid uric và không tăng acid uric (p<0.05). Trên sinh thiết thận ở 46 bệnh nhân, tỷ lệ class III, IV là 30.6%, 61.1%, nồng độ acid uric trung bình: 415.18±102.025 và 503.76±105.190, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0.019. Acid uric có mối tương quan thuận với chỉ số huyết áp tâm thu, tâm trương, áp lực động mạch phổi, creatinine máu, ferritin, anti-ANA, protein niệu với r = 0.188; 0.210; 0.242, 0.476; 0.265; 0.206; 0.226 (p<0.05) và tương quan nghịch với mức lọc cầu thận, pH niệu, hemoglobin, protein, C3 với r = -0.457; -0.241; -0.204, -0.261, -0.331 (p<0.05). Acid uric và mức độ hoạt động bệnh dựa trên thang điểm SLEDAI có mối tương quan thuận với với với hệ số tương quan r =0,388 (p<0,001). Nồng độ acid uric ở những bệnh nhân có tăng áp động mạch phổi >40mmHg cao hơn không có tăng ALĐMP là 560.1±173.03; 464.3 ±131.31 với p<0.05. Kết luận: Tăng acid uric gặp ở 75.2% bệnh nhân viêm thận lupus, dự báo tiến triển xấu của viêm thận lupus và các biến chứng của bệnh (mức MLCT thấp hơn, thiếu máu hơn, huyết áp tăng, mức độ hoạt động bệnh SLEDAI cao hơn…). Việc giữ nồng độ acid uric thấp được khuyến cáo giúp tránh các biến chứng trong viêm thận lupus và nồng độ acid uric huyết thanh nên được áp dụng trong thực hành y tế khi đánh giá bệnh nhân VTL.
#Tăng acid uric #Viêm thận lupus #mức độ hoạt động #SLEDAI #suy thận
KHÁNG THỂ KHÁNG BÀO TƯƠNG BẠCH CẦU ĐA NHÂN TRUNG TÍNH TRONG BỆNH LUPUS BAN ĐỎ HỆ THỐNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm khảo sát vai trò của các kháng thể kháng bào tương bạch cầu đa nhân trung tính trong bệnh lupus ban đỏ hệ thống . Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 115 bệnh nhân được chẩn đoán lupus ban đỏ hệ thống theo tiêu chuẩn SLICC 2012 điều trị tại Trung Tâm Dị Ứng Miễn Dịch Lâm Sàng Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 7/2020 đến tháng 9/2021. Kết quả: Tỉ lệ ANCA , MPO – ANCA, PR3-ANCA dương tính lần lượt 33%, 3,5%, 32,2%. PR3-ANCA dương tính liên qua tới nhóm bệnh nhân có thời gian mắc bệnh dưới 2 năm (p=0,05). Biểu hiện lâm sàng thường gặp trong nhóm bệnh nhân SLE với ANCA, c-ANCA dương tính là là đau khớp (57,9% và 56,8%), ban cánh bướm (26,3% và 24,3%), viêm phổi kẽ (26,3% và 24,3%), tràn dịch đa màng (34,2% và 35,1%) loét da, đầu chi (18,4% và 18,9%), Raynaud (16,2% và 16,7%) giảm C3 (97,4% và 97,3%), giảm C4 (84,2% và 83,8%) và 100% bệnh nhân SLE có ANCA, c – ANCA dương tính có dsDNA dương tính. ANCA dương tính ở bệnh nhân SLE liên quan tới các biểu hiện loét da, đầu chi (OR= 4,121, p = 0,038), Raynaud (OR= 7,258, p = 0,014), giảm C4 (OR= 4, p = 0,004), tăng dsDNA (OR= 1,561, p = 0,029), mức độ hoạt động bệnh nặng (OR=2,829, p=0,017) Kết luận: Ở bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống, ANCA liên quan tới mức độ hoạt động bệnh nặng và tổn thương da, hiệ tượng Raynaud. Chưa thấy mối liên quan giữa ANCA với tổn thương thận trong SLE.
#SLE #lupus #c-ANCA #p-ANCA #SLEDAI #viêm thận lupus
Kháng thể Anti-Smith liên quan đến hoạt động bệnh ở bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống mới khởi phát Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 39 - Trang 1937-1944 - 2019
Mặc dù kháng thể anti-Smith (Sm) là một kháng thể có tính đặc hiệu cao đối với lupus ban đỏ hệ thống (SLE), nhưng ý nghĩa của kháng thể anti-Sm ở bệnh nhân mắc SLE còn chưa rõ ràng. Nghiên cứu này nhằm đánh giá mối liên quan giữa kháng thể anti-Sm và hoạt động bệnh ở bệnh nhân SLE mới khởi phát. Chúng tôi đã bao gồm các bệnh nhân được xét nghiệm kháng thể anti-Sm tại thời điểm chẩn đoán SLE và trong vòng 12 tháng sau chẩn đoán. Chỉ số hoạt động bệnh lupus ban đỏ hệ thống (SLEDAI) đã được xác định tại thời điểm xét nghiệm kháng thể anti-Sm. Hoạt động bệnh cơ bản được so sánh giữa các bệnh nhân có và không có kháng thể anti-Sm. Mối liên quan theo chiều dọc giữa hoạt động bệnh và kháng thể anti-Sm cũng đã được đánh giá ở tổng số bệnh nhân và ở những người có kháng thể anti-Sm. Trong số 92 bệnh nhân được xét nghiệm kháng thể anti-Sm tại chẩn đoán SLE, 67 bệnh nhân được theo dõi sự hiện diện của kháng thể anti-Sm ở 6 và 12 tháng sau đó. Mặc dù chỉ số SLEDAI cơ bản tương đương ở các bệnh nhân có và không có kháng thể anti-Sm, nhưng mức độ kháng thể anti-Sm trong huyết thanh có mối tương quan đáng kể với SLEDAI (P = 0.003). Tại thời điểm 12 tháng, tính dương tính của kháng thể anti-Sm có liên quan đến chỉ số SLEDAI cao hơn và titer anti-dsDNA (P = 0.002, cả hai). Ngoài ra, những thay đổi trong titer kháng thể anti-Sm trong suốt 12 tháng có mối tương quan với sự thay đổi trong SLEDAI (P = 0.029). Kháng thể anti-Sm liên quan đến hoạt động bệnh cơ bản và sự thay đổi hoạt động bệnh ở bệnh nhân SLE mới khởi phát. Việc theo dõi titer kháng thể anti-Sm có thể giúp đánh giá hoạt động bệnh trong SLE.
#kháng thể anti-Smith #lupus ban đỏ hệ thống #hoạt động bệnh #SLEDAI #titer anti-dsDNA
MỐI LIÊN QUAN TĂNG MEN GAN VÀ ĐỢT CẤP BỆNH LUPUS BAN ĐỎ HỆ THỐNG
Tạp chí Sinh lý học Việt Nam - Tập 26 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ tăng men gan trên bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống (SLE) và mối liên quan giữa tăng men gan với đợt cấp bệnh SLE. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 157 bệnh nhân SLE được chẩn đoán theo tiêu chẩn SLICC 2012 điều trị tại Trung tâm Dị ứng Miễn dịch lâm sàng Bệnh viện Bạch Mai. Kết quả: 44/157 (28,0%) bệnh nhân tăng men gan. Số lượng bạch cầu máu ngoại vi nhóm bệnh 5,267±4,019 G/L thấp hơn nhóm chứng 8,509±4,331 G/L (p=0,000). Nồng độ C4 nhóm bệnh 0,099±0,076 g/L thấp hơn nhóm chứng 0,135±0,127 g/L (p=0,038). Điểm SLEDAI nhóm bệnh 12,556±7,229 cao hơn nhóm chứng 8,179±5,191 (p=0,002). Kết luận: Đợt cấp SLE gây tăng men gan.
#SLEDAI #đợt cấp lupus ban đỏ hệ thống #tăng men gan
Correction to: Active human herpesvirus infections in adults with systemic lupus erythematosus and correlation with the SLEDAI score
Advances in Rheumatology - Tập 60 - Trang 1-1 - 2020
An amendment to this paper has been published and can be accessed via the original article.
Tổng số: 12   
  • 1
  • 2