Sledai là gì? Các công bố khoa học về Sledai
Sledai là một từ viết tắt tiếng Anh, viết tắt của 'Social, Legal, Economic, Disability, Activities, and Impact Assessment'. Đây là một phương pháp đánh giá tác ...
Sledai là một từ viết tắt tiếng Anh, viết tắt của 'Social, Legal, Economic, Disability, Activities, and Impact Assessment'. Đây là một phương pháp đánh giá tác động xã hội, pháp lý, kinh tế, tình trạng khuyết tật và hoạt động của một dự án, chương trình hoặc chính sách. Phương pháp sledai giúp đánh giá tác động của một dự án đến các yếu tố xã hội, pháp lý, kinh tế, khuyết tật và hoạt động cụ thể, giúp tối ưu hóa kết quả và giảm thiểu những tác động tiêu cực.
Phương pháp SLEDAI (Social, Legal, Economic, Disability, Activities, and Impact Assessment) giúp đánh giá tác động của một dự án, chương trình hoặc chính sách từ nhiều khía cạnh khác nhau, để có cái nhìn tổng thể về các yếu tố liên quan. Dưới đây là mô tả chi tiết về từng yếu tố:
1. Social (Xã hội): Đánh giá tác động của dự án đến môi trường xã hội, bao gồm tác động đến cộng đồng, các nhóm dân cư, văn hóa, giáo dục, sức khỏe, an sinh xã hội và các vấn đề xã hội khác. Ví dụ: tác động đến việc làm, tỷ lệ nghèo đói, phân tầng xã hội, tương tác văn hóa,..
2. Legal (Pháp lý): Đánh giá tác động của dự án đến việc tuân thủ pháp luật và các quy định về môi trường, tài chính, lao động, quyền lợi công dân, v.v. Phần này thường liên quan đến việc xác định xem dự án có tuân thủ và tuân thủ pháp luật địa phương, quốc gia hay không.
3. Economic (Kinh tế): Đánh giá tác động của dự án đến mặt bằng kinh tế, tạo ra nhưng tương quan kinh tế, tạo ra thu nhập, cung cấp việc làm, tạo nền kinh tế bền vững và hỗ trợ phát triển địa phương.
4. Disability (Khuyết tật): Đánh giá tác động của dự án đến việc khuyết tật và sự hỗ trợ đối với các cá nhân có khuyết tật. Các yếu tố như truy cập, tích hợp xã hội và hỗ trợ cho người khuyết tật được xem xét trong phạm vi này.
5. Activities (Hoạt động): Đánh giá tác động của dự án đến các hoạt động và quá trình thực hiện của nó. Điều này đảm bảo rằng dự án được triển khai theo đúng kế hoạch, đáp ứng được các mục tiêu và mang lại hiệu quả sau khi hoàn thành.
6. Impact (Tác động): Đánh giá tác động tổng quan của dự án, bao gồm cả các tác động trực tiếp và gián tiếp. Điều này giúp xác định những biến đổi, kết quả và tác động có thể xảy ra do dự án và tìm ra cách để tối đa hóa hiệu quả và giảm thiểu những tác động tiêu cực.
SLEDAI tổng hợp các yếu tố trên để đánh giá tác động xã hội, pháp lý, kinh tế, khuyết tật và hoạt động của một dự án. Qua đó, có thể xác định các cải tiến và điều chỉnh cần thiết để đảm bảo dự án hoạt động đúng và có tác động tích cực đến cộng đồng và môi trường xung quanh.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sledai":
Dữ liệu về sự liên kết giữa mức vitamin D và hình thái lâm sàng cũng như hoạt động bệnh trong bệnh lupus ban đỏ hệ thống (SLE) là gây tranh cãi. Hơn nữa, liều lượng tối ưu của việc bổ sung vitamin D đường uống trong SLE không rõ ràng. Do đó, nghiên cứu hiện tại được thiết kế để xác định sự liên kết giữa mức vitamin D trong huyết tương với hình thái lâm sàng, các biến bệnh và huyết thanh học trong một nhóm lớn bệnh nhân SLE từ Nam Á và đánh giá hiệu quả ngắn hạn của hai chế độ liều khác nhau của việc bổ sung vitamin D đường uống đối với các cơn bùng phát bệnh và mức vitamin D trong huyết tương.
Đây là một nghiên cứu hai giai đoạn. Giai đoạn I là một nghiên cứu phân tích cắt ngang về các bệnh nhân từ miền bắc (26.85° Bắc) và miền nam Ấn Độ (11.94° Bắc). Mức plasma 25-hydroxyvitamin-D(25(OH)D) được đo lường và sự liên kết của nó với nhân khẩu học, huyết thanh học, hoạt động bệnh, Galectin-9 và CXCL-10 được phân tích. Trong giai đoạn II, những bệnh nhân có chỉ số SLEDAI-2KG < 10 và đang được kiểm soát miễn dịch ổn định được ngẫu nhiên để nhận hoặc liều cao (60.000 U*5 hàng tuần, tiếp theo là 60.000 U hàng tháng) hoặc liều thông thường (30.000 U hàng tháng) của vitamin D đường uống. Kết quả được đánh giá sau 6 tháng.
Giai đoạn I bao gồm 702 bệnh nhân với độ tuổi trung bình là 29.46 + 10.7 năm. Mức vitamin D trong huyết plasma trung bình là 22.83 (13.8–31.8) ng/ml. Thiếu hụt (< 20 ng/ml) được thấy ở 41.5% bệnh nhân. Bệnh nhân từ miền Nam Ấn Độ có mức vitamin D cao hơn (27.06 ± 20.21 ng/dl) so với miền Bắc Ấn Độ (17.15 ± 16.07 ng/ml) (
Trong giai đoạn II, 91 bệnh nhân được ngẫu nhiên vào 2 nhóm đã hoàn thành 6 tháng. Sự thay đổi trung vị về mức vitamin D trong huyết plasma nhiều hơn ở nhóm liều cao (9.5 so với 2.6 ng/ml;
Thiếu hụt vitamin D là phổ biến trong bệnh SLE. Vị trí địa lý nơi cư trú là yếu tố chính quyết định hơn là hoạt động bệnh. Các protein điều hòa IFN phản ánh hoạt động bệnh mà không phụ thuộc vào mức vitamin D. Việc bổ sung vitamin D đường uống liều cao dường như an toàn và hiệu quả hơn trong việc cải thiện mức vitamin D trong SLE.
Giai đoạn thứ hai của nghiên cứu này đã được đăng ký là nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng CTRI/2019/06/019658 [được đăng ký vào: 14/06/2019].
- 1
- 2