Máy biến áp là gì? Các công bố khoa học về Máy biến áp

Máy biến áp là một thiết bị được sử dụng để biến đổi điện áp từ một mức đầu vào sang một mức đầu ra khác. Chức năng chính của máy biến áp là tăng hoặc giảm điện áp, tùy thuộc vào yêu cầu của hệ thống điện. Máy biến áp được sử dụng trong nhiều ứng dụng khác nhau như truyền tải điện, phân phối điện, chuyển đổi điện áp cho các thiết bị điện, điện tử, máy móc và hệ thống công nghiệp.
Máy biến áp là một loại máy chuyển đổi điện áp được sử dụng để biến đổi điện áp từ một mức đầu vào sang một mức đầu ra khác. Cấu tạo cơ bản của máy biến áp bao gồm hai cuộn dây, mỗi cuộn gắn liền với một nhân của máy biến áp. Cuộn dây gắn với nguồn điện đầu vào được gọi là cuộn cấp và cuộn dây gắn với đầu ra được gọi là cuộn nguồn.

Máy biến áp có thể hoạt động ở hai chế độ chính là tăng áp (step-up) và giảm áp (step-down). Khi máy biến áp được đặt ở chế độ tăng áp, điện áp đầu ra cao hơn điện áp đầu vào. Trong chế độ giảm áp, điện áp đầu ra thấp hơn điện áp đầu vào.

Trong quá trình hoạt động, máy biến áp sử dụng nguyên tắc cơ bản của sự tương tác giữa các cuộn dây và từ trường. Khi điện áp được áp dụng vào cuộn cấp, dòng điện chạy qua cuộn này, tạo ra một từ trường. Từ trường này tác động vào cuộn nguồn, làm cho điện áp đầu nguồn đạt đến mức mong muốn.

Máy biến áp có nhiều loại khác nhau, bao gồm biến áp dòng điện và biến áp tỷ lệ. Biến áp dòng điện được sử dụng để biến đổi dòng điện từ một mức đầu vào sang một mức đầu ra khác, trong khi biến áp tỷ lệ được sử dụng để biến đổi cả điện áp và dòng điện.

Ngoài ra, máy biến áp còn có thể được điều khiển bằng các thiết bị điều khiển như bộ điều khiển tự động. Điều này giúp tăng cường khả năng kiểm soát và điều chỉnh điện áp đầu ra theo yêu cầu của hệ thống.
Máy biến áp thường được chia thành hai loại chính là máy biến áp hạ áp và máy biến áp trung áp, dựa trên mức điện áp đầu vào và đầu ra.

1. Máy biến áp hạ áp (Low Voltage Transformer):
- Máy biến áp hạ áp thường được sử dụng trong các hộ gia đình, tòa nhà, hoặc các ứng dụng công nghiệp nhỏ.
- Máy biến áp hạ áp có mức điện áp đầu vào thấp (thường dưới 1000V) và mức điện áp đầu ra thấp hơn mức đầu vào.
- Chức năng chính của máy biến áp hạ áp là tăng hoặc giảm điện áp để đáp ứng các yêu cầu về sử dụng điện trong hộ gia đình hoặc công nghiệp nhỏ.

2. Máy biến áp trung áp (Medium Voltage Transformer):
- Máy biến áp trung áp thường được sử dụng trong các hệ thống điện lưới, trạm biến áp, nhà máy điện hoặc các công trình xây dựng lớn.
- Máy biến áp trung áp có mức điện áp đầu vào và đầu ra cao hơn so với máy biến áp hạ áp.
- Chức năng chính của máy biến áp trung áp là tăng hoặc giảm điện áp từ mức trung áp thành mức hạ áp hoặc ngược lại cho việc truyền tải và phân phối điện từ nhà máy điện đến các địa điểm sử dụng.

Máy biến áp còn có thể được phân loại theo loại hình thiết kế, như máy biến áp dầu, máy biến áp khô và máy biến áp tự nguồn. Máy biến áp dầu sử dụng dầu cách điện để làm môi trường cách điện và làm mát, trong khi máy biến áp khô sử dụng vật liệu cách điện khô như giấy cách điện hoặc nhựa epoxy. Máy biến áp tự nguồn có thể hoạt động độc lập với nguồn điện bên ngoài mà không cần sự cấp điện từ hệ thống điện lưới.

Máy biến áp là một phần quan trọng trong hệ thống điện, giúp điều chỉnh và đáp ứng các yêu cầu về điện áp của các thiết bị, máy móc và hệ thống công nghiệp khác nhau.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "máy biến áp":

G-CSF
Inpharma Weekly - - Trang 4-4 - 2013
Water-weakened lower crust and its role in the concentrated deformation in the Japanese Islands
Earth and Planetary Science Letters - - Trang 245-253 - 2002
Yoshihisa Iio, Takeshi Sagiya, Yoji Kobayashi, Ichiro Shiozaki
On permeable potential boundary conditions for the Laplace–Beltrami operator
Siberian Mathematical Journal - - Trang 1060-1064 - 2015
T. Sh. Kal’menov, D. Suragan
Under study are the so-called permeable potential boundary conditions for the Laplace–Beltrami operator defined in a domain Ω on the unit sphere S in ℝ3. The permeability of boundary conditions means that a solution to a boundary value problem in Ω coincides with a solution to the Laplace–Beltrami equation on the whole sphere in absence of any boundary conditions.
Prediction of Parkinson’s disease pathogenic variants using hybrid Machine learning systems and radiomic features
Physica Medica - - Trang 102647 - 2023
Ghasem Hajianfar, Samira Kalayinia, Mahdi Hosseinzadeh, Sara Samanian, Majid Maleki, Vesna Sossi, Arman Rahmim, Mohammad R. Salmanpour
Thermal study of active pharmaceutical ingredients used as analgesics by DTA and DSC coupled to photovisual system
Chemical Thermodynamics and Thermal Analysis - - Trang 100072 - 2022
Laianne Carla B. Alencar, Cleildo P. Santana, Karla Monik A. Silva, Fernanda P. Nóbrega, Lidiane P. Correia, Widson M. Santos, Fabrício Havy D. Andrade, Fábio S. Santos, Rui Oliveira Macêdo, Ana Cláudia D. Medeiros
Electronic structure of crystalline uranium nitride: LCAO DFT calculations
Journal of Structural Chemistry - - Trang S125-S133 - 2007
R. A. Évarestov, A. I. Panin, M. V. Losev
The results of electronic structure calculations performed for the first time for crystalline uranium nitride and using a LCAO basis are discussed. For calculations we used the density functional method with the PW91 exchange correlation potential and a variety of relativistic core potentials for the uranium atom. The calculated atomization energy of the crystal agrees well with the experimental data and with the results of calculations with the plane wave basis. It is shown that a chemical bond in crystalline uranium nitride is a metal covalent bond. The metal component of the bond is due to the 5f electrons localized on the uranium atom and having energies near the Fermi level and the bottom of the conduction band. The covalent component of the chemical bond results from an overlap between the uranium 6d and 7s valence orbitals and the nitrogen 2p atomic orbitals. Inclusion of the 5f electrons in the core of the uranium atom introduces relatively minor changes in the calculated binding energy and electron density distribution.
Exploring minimum essentials for sustainable school disaster preparedness: A case of elementary schools in Banda Aceh City, Indonesia
International Journal of Disaster Risk Reduction - - Trang 73-83 - 2018
A. Sakurai, M.B.F. Bisri, T. Oda, R.S. Oktari, Y. Murayama, Nizammudin, M. Affan
The optimization of molybdenum back contact films for Cu(In,Ga)Se2 solar cells by the cathodic arc ion plating method
Thin Solid Films - - Trang 162-167 - 2013
Yong Ki Cho, Gang Sam Kim, Young Sik Song, Tae Hong Lim, Donggeun Jung
Geodetic constraints to the kinematics of the Kapareli fault, reactivated during the 1981, Gulf of Corinth earthquakes
Tectonophysics - - Trang 105-119 - 2007
S.C. Stiros, P. Psimoulis, S. Pitharouli
IR spectra and structure of poly-p-phenyleneterephthalamide
Journal of Applied Spectroscopy - - Trang 345-348 - 1974
G. D. Litovchenko, T. S. Sokolova, A. V. Volokhina, G. I. Kudryavtsev, S. P. Papkov
Tổng số: 2,328,450   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 232845