Architecture là gì? Các công bố khoa học về Architecture
Kiến trúc là một lĩnh vực nghệ thuật, khoa học và công nghệ liên quan đến thiết kế, xây dựng và tạo ra các công trình kiến trúc như các ngôi nhà, tòa nhà, công ...
Kiến trúc là một lĩnh vực nghệ thuật, khoa học và công nghệ liên quan đến thiết kế, xây dựng và tạo ra các công trình kiến trúc như các ngôi nhà, tòa nhà, công trình công cộng và không gian sống. Kiến trúc không chỉ tập trung vào việc tạo ra các công trình đẹp mắt và chức năng, mà còn phải thỏa mãn các yêu cầu về bền vững, an toàn, tiện ích và xã hội. Nghệ sĩ kiến trúc được gọi là kiến trúc sư, người đứng đầu quá trình thiết kế và xây dựng các công trình kiến trúc.
Chi tiết hơn, kiến trúc là một ngành nghề và một lĩnh vực nghiên cứu, nơi mà các chuyên gia (kiến trúc sư) sử dụng kiến thức và kỹ năng của mình để tạo ra các công trình kiến trúc mang tính chất nghệ thuật và chức năng.
Trong quá trình thiết kế, kiến trúc sư cần phải xem xét nhiều yếu tố, bao gồm:
- Văn hóa và lịch sử: Kiến trúc được ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa và lịch sử của một khu vực. Các kiến trúc sư thường nghiên cứu văn hóa và quyền lực xã hội của một nền văn hóa để hiểu và áp dụng các yếu tố này vào thiết kế.
- Kỹ thuật và công nghệ: Kiến trúc cũng liên quan đến các yếu tố kỹ thuật và công nghệ. Các công trình kiến trúc phải được thiết kế và xây dựng sao cho bền vững và tuân thủ các quy định kỹ thuật, vật liệu và công nghệ hiện đại.
- Môi trường và bền vững: Với địa bàn và môi trường ngày càng bị ô nhiễm và khắc nghiệt hơn, kiến trúc bền vững và thân thiện với môi trường trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Kiến trúc sư cần có kiến thức về các nguyên tắc và kỹ thuật thiết kế xanh để tối ưu hóa việc sử dụng năng lượng, giảm thiểu ô nhiễm và tạo ra một môi trường sống lành mạnh.
- Tiện ích và chức năng: Một công trình kiến trúc cần phải phục vụ cho mục đích cụ thể. Kiến trúc sư phải đáp ứng các yêu cầu về tiện ích và chức năng, đảm bảo công trình đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt, làm việc và vui chơi của con người.
- Thẩm mỹ: Kiến trúc không chỉ phải đáp ứng các yếu tố chức năng mà còn phải mang tính chất nghệ thuật và thẩm mỹ. Các công trình kiến trúc thường được thiết kế sao cho đẹp mắt và tạo ra một không gian sống, làm việc và vui chơi tốt cho con người.
Tổng quan về kiến trúc không chỉ bao gồm các công trình nhà ở hay tòa nhà, mà còn bao gồm các công trình công cộng như cầu, sân bay, bệnh viện, trường học, nhà thi đấu và các công trình thương mại như trung tâm mua sắm, khách sạn, nhà hàng, v.v.
Trên hết, kiến trúc tạo nên không gian sống và làm việc của con người, góp phần vào việc tạo nên một môi trường xã hội ổn định, chất lượng và estetica.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "architecture":
1. The striate cortex was studied in lightly anaesthetized macaque and spider monkeys by recording extracellularly from single units and stimulating the retinas with spots or patterns of light. Most cells can be categorized as simple, complex, or hypercomplex, with response properties very similar to those previously described in the cat. On the average, however, receptive fields are smaller, and there is a greater sensitivity to changes in stimulus orientation. A small proportion of the cells are colour coded.
2. Evidence is presented for at least two independent systems of columns extending vertically from surface to white matter. Columns of the first type contain cells with common receptive‐field orientations. They are similar to the orientation columns described in the cat, but are probably smaller in cross‐sectional area. In the second system cells are aggregated into columns according to eye preference. The ocular dominance columns are larger than the orientation columns, and the two sets of boundaries seem to be independent.
3. There is a tendency for cells to be grouped according to symmetry of responses to movement; in some regions the cells respond equally well to the two opposite directions of movement of a line, but other regions contain a mixture of cells favouring one direction and cells favouring the other.
4. A horizontal organization corresponding to the cortical layering can also be discerned. The upper layers (II and the upper two‐thirds of III) contain complex and hypercomplex cells, but simple cells are virtually absent. The cells are mostly binocularly driven. Simple cells are found deep in layer III, and in IV A and IV B. In layer IV B they form a large proportion of the population, whereas complex cells are rare. In layers IV A and IV B one finds units lacking orientation specificity; it is not clear whether these are cell bodies or axons of geniculate cells. In layer IV most cells are driven by one eye only; this layer consists of a mosaic with cells of some regions responding to one eye only, those of other regions responding to the other eye. Layers V and VI contain mostly complex and hypercomplex cells, binocularly driven.
5. The cortex is seen as a system organized vertically and horizontally in entirely different ways. In the vertical system (in which cells lying along a vertical line in the cortex have common features) stimulus dimensions such as retinal position, line orientation, ocular dominance, and perhaps directionality of movement, are mapped in sets of superimposed but independent mosaics. The horizontal system segregates cells in layers by hierarchical orders, the lowest orders (simple cells monocularly driven) located in and near layer IV, the higher orders in the upper and lower layers.
Neural connections, providing the substrate for functional networks, exist whether or not they are functionally active at any given moment. However, it is not known to what extent brain regions are continuously interacting when the brain is “at rest.” In this work, we identify the major explicit activation networks by carrying out an image-based activation network analysis of thousands of separate activation maps derived from the BrainMap database of functional imaging studies, involving nearly 30,000 human subjects. Independently, we extract the major covarying networks in the resting brain, as imaged with functional magnetic resonance imaging in 36 subjects at rest. The sets of major brain networks, and their decompositions into subnetworks, show close correspondence between the independent analyses of resting and activation brain dynamics. We conclude that the full repertoire of functional networks utilized by the brain in action is continuously and dynamically “active” even when at “rest.”
Accurate multiple alignments of 86 domains that occur in signaling
proteins have been constructed and used to provide a Web-based tool
(SMART: simple modular architecture research tool) that allows rapid
identification and annotation of signaling domain sequences. The
majority of signaling proteins are multidomain in character with a
considerable variety of domain combinations known. Comparison with
established databases showed that 25% of our domain set could not be
deduced from SwissProt and 41% could not be annotated by Pfam. SMART
is able to determine the modular architectures of single sequences or
genomes; application to the entire yeast genome revealed that at least
6.7% of its genes contain one or more signaling domains, approximately
350 greater than previously annotated. The process of constructing
SMART predicted (
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10