Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering

  2615-9937

 

 

Cơ quản chủ quản:  N/A

Lĩnh vực:

Các bài báo tiêu biểu

Hạn hán lịch sử và xâm nhập mặn tại Đồng Bằng Sông Cửu Long năm 2016: Bài học kinh nghiệm và giải pháp ứng phó Dịch bởi AI
- 2017
Ngoc Anh Nguyen
Trong mùa khô năm 2015-2016, Đồng Bằng Sông Cửu Long đã phải chịu đợt hạn hán và xâm nhập mặn lịch sử tồi tệ nhất từng được ghi nhận, gây ra thiệt hại nặng nề cho chín tỉnh ven biển (tổng cộng 13 tỉnh) của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngay sau khi hạn hán và xâm nhập mặn xảy ra, truyền thông đã đưa ra một số ý kiến khác nhau đề xuất các giải pháp khả dĩ nhằm đáp ứng hiệu quả và phát triển ổn định cho các khu vực ven biển. Tác giả đề xuất rằng để có sự phát triển bền vững cho đồng bằng sông Cửu Long nói chung và các vùng ven biển nói riêng, Việt Nam cần có một số giải pháp cơ bản cả ngắn hạn và dài hạn, cho từng vùng cũng như toàn bộ đồng bằng, bao gồm các chương trình hạn chế hạn mặn và lũ lụt, các công trình kỹ thuật và phi kỹ thuật, và phạm vi bao trùm cả Đồng Bằng Sông Cửu Long và toàn bộ lưu vực sông Mekong.
#hạn hán lịch sử #Đồng Bằng Sông Cửu Long #xâm nhập mặn
Nghiên cứu và phát triển lai tạo keo lai cho trồng trọt thương mại tại Việt Nam Dịch bởi AI
Tập 59 Số 1 - Trang 36-42 - 2017
Dinh Kha Le, Huy Thinh Ha
“Keo lai” đề cập đến các giống lai giữa các loài A. mangium và A. auriculiformis, bao gồm cả các giống tự nhiên, nhân tạo và đa bội. Các ưu điểm nổi trội của keo lai được chọn là tăng trưởng nhanh, thân thẳng, cành nhỏ, năng suất cao và tỷ lệ sử dụng gỗ cao. Keo lai được công nhận là có tiềm năng sản xuất bột giấy cao hơn và khả năng cải thiện đất tốt hơn so với các loài cây cha mẹ, có thể thấy qua số lượng nốt sần cố định đạm lớn hơn gấp 2.5-13 lần trên rễ trong giai đoạn ươm cây. Công nghệ nhân giống hàng loạt bằng cách ghép và nuôi cấy mô đã được phát triển thành công cho keo lai, cho phép tạo ra các cánh rừng nhân bản quy mô lớn nhằm cải thiện năng suất và chất lượng trồng rừng. Diện tích rừng trồng keo lai đến năm 2016 ước tính khoảng 500,000 ha, với mức tăng hàng năm 30,000-35,000 ha, biến nó thành loại cây rừng được trồng phổ biến nhất tại Việt Nam. Keo lai và các công nghệ nhân giống cũng đã được giới thiệu tại Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Lào và Campuchia. Nghiên cứu và phát triển lai tạo keo lai có thể được coi là một cuộc cách mạng trong ngành lâm nghiệp và đã tạo ra những hướng đi mới và tiên tiến cho cả nghiên cứu và đào tạo trong nhân giống cây trồng tại Việt Nam.
#Keo tai tượng #keo lai #keo lá tràm #ghép cây #nốt sần #nuôi cấy mô
Phương pháp đơn giản, hiệu quả và toàn diện cho việc chiết xuất DNA gen từ vi khuẩn, nấm men, nấm mốc và vi tảo phù hợp với các ứng dụng dựa trên PCR Dịch bởi AI
Tập 59 Số 4 - Trang 66-74 - 2017
Van Tuan Tran, Thi Binh Xuan Loc Do, Thi Khuyen Nguyen, Xuan Tao Vu, Bich Ngoc Dao, Hoai Ha Nguyen
Việc chiết xuất DNA gen từ tế bào vi sinh vật đóng vai trò quan trọng trong các ứng dụng dựa trên PCR như chẩn đoán phân tử, phân loại vi sinh vật, sàng lọc các sinh vật biến đổi gen và nhiều ứng dụng khác. Hiện nay, nhiều phương pháp chiết xuất DNA gen từ vi sinh vật đã được phát triển. Tuy nhiên, những phương pháp này thường yêu cầu hóa chất có hại hoặc bao gồm các bước thực hiện tốn thời gian. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã thiết lập một phương pháp chiết xuất DNA gen đơn giản và toàn diện cho các vi sinh vật khác nhau bao gồm vi khuẩn, nấm men, nấm mốc và vi tảo. Phương pháp của chúng tôi không yêu cầu các chất tái kích như phenol và chloroform trong quá trình chiết xuất để giảm thiểu việc sinh ra chất thải nguy hại. Các sản phẩm DNA gen thu được có nồng độ cao và đạt mức độ tinh khiết tốt với tỷ lệ hấp thụ trung bình ở 260 nm/280 nm (A260/280) dao động từ 1,6 đến 2,0. Các phân tử DNA cũng vẫn còn nguyên vẹn khi được phân tích trên gel agarose. Quan trọng hơn, những sản phẩm DNA này đã được chứng minh thông qua việc khuếch đại PCR thành công gen 16S rRNA, spacer nội bộ của rDNA (ITS), hoặc gen 18S rRNA từ bộ gen của vi khuẩn, nấm và vi tảo tương ứng. Hơn nữa, với các sản phẩm DNA gen đã chiết xuất, quá trình xác định trạng thái đơn bội và lưỡng bội của các chủng nấm men Saccharomyces hoặc phát hiện các chủng tiềm tàng của Aspergillus oryzae và Aspergillus flavus đã được phân lập từ nguyên liệu thực phẩm bị nhiễm thông qua các phân tích PCR được thuận lợi. Phương pháp chiết xuất DNA gen được thiết lập trong nghiên cứu này dễ dàng quản lý, tiết kiệm thời gian, chi phí hiệu quả và thân thiện với môi trường.
#bacteria #microalgae #molds #PCR #simple genomic DNA extraction #yeasts
Phân đoạn khối u não sử dụng mạng nơ-ron tích chập hoàn toàn dựa trên U-Net và cây cực kỳ phân loại ngẫu nhiên Dịch bởi AI
Tập 60 Số 3 - Trang 19-25 - 2018
Hai Thanh Le, Hien Thi-Thu Pham
Trong bài báo này, chúng tôi trình bày một phương pháp học dựa trên mô hình cho việc phân đoạn khối u não từ các giao thức MRI đa mô hình. Mô hình sử dụng mạng nơ-ron tích chập hoàn toàn dựa trên U-Net để trích xuất các đặc trưng từ tập dữ liệu huấn luyện MRI đa mô hình và sau đó áp dụng chúng cho bộ phân loại cây cực kỳ phân loại ngẫu nhiên (ExtraTrees) để phân đoạn các mô tế bào bất thường liên quan đến khối u não. Các bộ lọc hình thái sau đó được sử dụng để loại bỏ các nhãn bị phân loại sai. Phương pháp của chúng tôi đã được đánh giá trên tập dữ liệu Thử thách Phân đoạn Khối u Não 2013 (BRATS 2013), đạt được chỉ số Dice lần lượt là 0.85, 0.81 và 0.72 cho khối u toàn bộ, lõi khối u và lõi khối u tăng cường. Kết quả phân đoạn thu được đã được so sánh với các phương pháp gần đây nhất, cung cấp hiệu suất cạnh tranh.
#brain tumour #convolutional neural network #extremely randomized trees #segmentation #U-Net
Thay đổi về các hiện tượng khí hậu cực đoan ở Việt Nam Dịch bởi AI
Tập 59 Số 1 - Trang 79-87 - 2017
Van Thang Nguyen, Van Khiem Mai, Van Thang Vu, Dang Mau Nguyen, Ngoc Bich Phuong Nguyen, Duy Diep Le, Truong Minh Ha, Nhat Linh Luu
Nghiên cứu này đại diện cho các thay đổi quan sát được và các dự đoán về hiện tượng khí hậu cực đoan trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Phương pháp hồi quy tuyến tính đã được sử dụng để xác định các xu hướng và biến thể của khí hậu cực đoan trong quá khứ, trong khi các biến đổi dự đoán về khí hậu cực đoan được phát hiện dựa trên phương pháp thu nhỏ động lực và so sánh với giai đoạn cơ sở (1986-2005). Kết quả cho thấy rằng nhiệt độ không khí mặt đất tối đa và tối thiểu hàng ngày (Txx, Tnn) đã tăng đáng kể với giá trị cao nhất lên tới khoảng 0,9oC/thập kỷ trong giai đoạn 1961-2014. Số ngày nắng nóng đã tăng lên ở hầu hết các trạm quan sát, đặc biệt là ở miền Trung Việt Nam. Xu hướng mưa cực đoan thay đổi giữa các vùng: giảm tại hầu hết các trạm ở Tây Bắc, Đông Bắc và đồng bằng sông Hồng; và tăng tại các trạm khác. Tại Việt Nam, trong giai đoạn 1959-2015, không có sự thay đổi rõ rệt trong tần suất các cơn bão nhiệt đới gây ra hiện tượng đổ bộ, bao gồm bão và áp thấp nhiệt đới. Tuy nhiên, tỷ lệ xuất hiện của các cơn bão mạnh nhất hiện nay đang có xu hướng gia tăng. Trong những năm gần đây, mùa bão có xu hướng kết thúc muộn hơn so với trước đây, và bão xảy ra thường xuyên hơn ở các vùng Nam. Kết quả dự đoán về các hiện tượng khí hậu cực đoan trong tương lai cho các giai đoạn 2046-2065 và 2080-2099, so với giai đoạn cơ sở 1986-2005 dưới kịch bản trung bình và cao (RCP 4.5 và RCP 8.5) cho thấy rằng các hiện tượng cực đoan về nhiệt độ sẽ có khả năng tăng lên đáng kể trong tương lai. Số ngày nắng nóng sẽ có khả năng tăng về cả tần suất và cường độ, trong khi số ngày lạnh cực đoan sẽ có khả năng giảm ở hầu hết các trạm ở miền Bắc. Lượng mưa tối đa trong một ngày cũng có khả năng tăng lên trên toàn bộ các vùng ở Việt Nam. Kết quả từ các mô hình cho thấy rằng số lượng bão mạnh sẽ có khả năng tăng lên vào giữa và cuối thế kỷ.
#climate change #climate extreme
Các tác động chuyển giao của chất hóa dẻo di-2-ethylhexyl phthalate đến sự sống sót, tăng trưởng và sinh sản của Daphnia magna Dịch bởi AI
Tập 61 Số 4 - Trang 64-69 - 2019
Thi-Phuong-Dung Le, Van-Tai Nguyen, Thi-My-Chi Vo, Nghia-Hiep Bui, Thanh-Son Dao
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã thực hiện đánh giá độc tính mạn tính của di-2-ethylhexyl phthalate (DEHP) đối với các đặc điểm lịch sử sống của Daphnia magna qua ba thế hệ. Ở thế hệ đầu tiên, các ấu trùng (gọi là Daphnia F0) được nuôi trong môi trường kiểm soát (C, môi trường không có độc tố) hoặc trong môi trường có chứa DEHP ở ba nồng độ 5, 50 và 500 µgl-1, được viết tắt là P5, P50 và P500 tương ứng. Con cái từ nhóm kiểm soát F0 (gọi là Daphnia F1) được nuôi trong môi trường không có độc tố (được ký hiệu là C-C). Tuy nhiên, con cái từ sự tiếp xúc P500 được chia thành hai nhóm: (i) nhóm đầu tiên được nuôi trong môi trường không có độc tố, kiểm soát (được ký hiệu là P-C) và (ii) nhóm thứ hai lại được nuôi trong môi trường có chứa 500 µgl-1 DEHP (được ký hiệu là P-P). Con cái từ F1 (gọi là Daphnia F2) cũng được chia lại và xử lý theo cách tương tự như F1, dẫn đến C-C-C, P-P-C và P-P-P. Thời gian tiếp xúc cho mỗi thế hệ (F0, F1, F2) là 21 ngày. Tỉ lệ sống sót và sinh sản của D. magna qua ba thế hệ (F0, F1 và F2) đã được ghi lại hàng ngày trong khoảng thời gian 21 ngày ấp. Chiều dài cơ thể của các cá thể ở thế hệ F0 được đo vào cuối thời gian ấp. Kết quả cho thấy tỉ lệ sống sót của D. magna trong các điều trị kiểm soát và DEHP là tương tự nhau, trong khi DEHP đã tăng cường mạnh mẽ sự sinh sản của D. magna ở các thế hệ F0 và F1. Tuy nhiên, ở thế hệ F2, tỉ lệ sống sót cho P-P-C và P-P-P chỉ là 45-50% so với nhóm kiểm soát. Do đó, tỉ lệ ấu trùng tích lũy trong các phương pháp điều trị DEHP thấp hơn nhiều, khoảng 50% so với nhóm kiểm soát. Sự suy giảm về khả năng sống sót và sinh sản của D. magna ở thế hệ F2 và chiều dài cơ thể nhỏ hơn của phương pháp điều trị P500 là hệ quả của chi phí năng lượng và sự đánh đổi dưới những tác động mạn tính của DHEP. Các kết quả tiết lộ rằng sự phát triển quần thể của vi sinh vật giáp xác có thể dẫn đến tuyệt chủng nếu tiếp tục tiếp xúc với nồng độ phthalate cao trong các nguồn nước tự nhiên. Đề xuất theo dõi tại chỗ về phthalate và động vật phù du trong hệ sinh thái thủy sinh.
#chronic effects #life traits #micro-crustacean #plastic additives
Dữ liệu hình thái và phân tử tiết lộ một loài Alocasia mới (Araceae) từ Việt Nam Dịch bởi AI
Tập 59 Số 2 - Trang 76-82 - 2017
Hong Thien Van, Phi Nga Nguyen, Ngoc Toan Tran, Hong Truong Luu
Alocasia rivularis (Araceae) được đề xuất là một loài mới từ miền Trung Việt Nam. Loài mới này có hình thái tương tự với các loài của Nhóm Cuprea của Alocasia, nhưng theo kết quả của các trình tự trnL-trnF IGS và matK, cùng với sự khác biệt về hình thái, nó rõ ràng khác với các loài đồng làm gần nhất. Phân tích phát sinh loài, mô tả và minh họa được cung cấp.
#Alocasia rivularis #Araceae #central Vietnam #new species #phylogeny
Determination of protease and chitinase activities from Paecilomyces variotii NV01 isolated from Dak Lak pepper soil
Tập 61 Số 4 - Trang 58-63 - 2019
Chu Thanh Binh, Tran Van Tuan, Tran Bao Tram, Bui Thi Viet Ha
The filamentous fungus Paecilomyces is currently being developed as a biocontrol agent against plant parasitic nematodes, which often cause black leaf disease in pepper and coffee trees. Nematode eggs and cuticles are the infection sites for biocontrol agents that penetrate those areas by the production of lytic enzymes. Paecilomyces variotii NV01 was isolated from pepper soil from the Dak Lak province. The purpose of this work is to study the activity of protease and chitinase in the strain Paecilomyces variotii NV01. The protease activity was determined to be 82.3 U/ml in a 0.65% casein substrate concentration after 84 hours of culture, which was 6 folds higher than with a basal medium (12.7 U/ml). Exo-chitinase activity was found to be 37.28 U/ml after 84 hours of culture in a chitin substrate concentration of 0.75%, which is 4 folds greater than the basal medium. It was found that adding Ca2+ to the medium drastically altered chitinase activity, increasing it by 10.5%. A 5 mM concentration of Ca2+ was found to affect chitinase activity but not protease activity. Furthermore, the percentage of Meloidogyne sp. nematodes killed by Paecilomyces variotii NV01 after 96 hours of culture was 50.4%. Further study should be carried out in order to use this fungal strain to control plant parasitic nematodes.
#chitinase #Meloidogyne sp. #Paecilomyces variotii NV01 #protease
Hiệu suất sinh trưởng và đẻ trứng của hai giống gà Noi nuôi trong hệ thống chăn nuôi tập trung Dịch bởi AI
Tập 64 Số 2 - Trang 54-58 - 2022
Vu Hoa Dang, Van Diep Duong, Thi Huong Nguyen, Ngoc Khanh Do, Thi Hue Le, Minh Hieu Nguyen, Thi Ut Tran, Hoang Nguyen Nguyen, Thuy Nhung Dang
Nghiên cứu này được thực hiện để so sánh hai giống gà Noi thuần chủng màu đen và nâu đậm được nuôi trong hệ thống chăn nuôi tập trung. Tổng cộng có 600 con gà Noi màu đen và 600 con gà Noi màu nâu đậm đã được quan sát kể từ ngày thứ nhất sau khi nở. Tại thời điểm 20 tuần tuổi, 30 con gà trống Noi màu đen và 300 con gà mái Noi màu đen, cùng với 30 con gà trống Noi màu nâu đậm và 300 con gà mái Noi màu nâu đậm đã được nghiên cứu cho đến khi bắt đầu sinh sản. Tất cả gà trống và gà mái đều được nuôi trong lồng riêng biệt và việc phối giống được thực hiện nhân tạo. Ở tuần 24, trọng lượng trung bình của gà trống Noi màu đen và nâu đậm lần lượt là 2555 g và 2600 g, trong khi trọng lượng trung bình của gà mái lần lượt là 1796 g và 1830 g. Không có sự khác biệt về trọng lượng cơ thể giữa hai giống. Độ tuổi bắt đầu đẻ trứng của cả hai giống đều tương đối muộn. Từ tuần 25 đến 50, sản lượng trứng của gà mái Noi màu đen và nâu đậm lần lượt là 74,33 và 77,98 quả/trứng, với trọng lượng trứng trung bình lần lượt là 48,3 g và 49,7 g. Tỉ lệ trứng có phôi thấp ở mức 80,3 và 81,9% đối với giống màu đen và nâu đậm, tương ứng, và tỷ lệ gà con/trứng ấp là 73,4 và 77,0%, tương ứng. Gà Noi, đặc biệt là giống nâu đậm, đạt được sản lượng trứng tương đối cao trong hệ thống chăn nuôi tập trung, điều này tạo ra tiềm năng lớn cho việc khai thác và phát triển nguồn gen này.
#growth performance #laying performance #native hen #Noi chicken
Finite-difference method for the Gamma equation on non-uniform grids
Tập 61 Số 4 - Trang 3-8 - 2019
Le Minh Hieu, Truong Thi Hieu Hanh, Dang Ngoc Hoang Thanh
We propose a new monotone finite-difference scheme for the second-order local approximation on a nonuniform grid that approximates the Dirichlet initial boundary value problem (IBVP) for the quasi-linear convection-diffusion equation with unbounded nonlinearity, namely, for the Gamma equation obtained by transformation of the nonlinear Black-Scholes equation into a quasilinear parabolic equation. Using the difference maximum principle, a two-sided estimate and an a priori estimate in the c-norm are obtained for the solution of the difference schemes that approximate this equation.
#Gamma equation #maximum principle #monotone finite-difference scheme #non-uniform grid #quasi-linear parabolic equation #scientific computing #two-side estimates