Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn

  2354-1172

 

  Việt Nam

Cơ quản chủ quản:  Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

Lĩnh vực:

Phân tích ảnh hưởng

Thông tin về tạp chí

 

Được thành lập ngày 31/8/2015 (giấy phép hoạt động số 155/GP-BVHTT ngày 11 tháng 5 năm 2015 của Bộ Thông tin và Truyền thông, mã số tiêu chuẩn quốc tế ISSN 2354-1172), Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn (Journal of Social Sciences and Humanities) là ấn phẩm khoa học chính thức, duy nhất của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội, phát triển và kế thừa Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tạp chí Khoa học, ĐHQG Hà Nội.
Tạp chí xuất bản định kỳ (04 số tiếng Việt/năm và 02 số tiếng Anh/năm), có nhiệm vụ công bố, giới thiệu các công trình nghiên cứu khoa học khoa học xã hội và nhân văn của các tác giả là các nhà khoa học trong và ngoài nước, phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học. Hội đồng biên tập của Tạp chí hiện bao gồm 33 nhà khoa học có uy tín trong nước và quốc tế. Tạp chí tập trung và ưu tiên đăng tải những bài báo theo định hướng của tinh thần cởi mở, sáng tạo, nhanh chóng vươn lên để tiếp cận và sánh ngang với các tạp chí có uy tín hàng đầu của khu vực và trên thế giới. Nội dung chính của Tạp chí bao gồm các Bài nghiên cứu (khoảng 6000 đến 15000 từ), các bài điểm sách, thông tin khoa học (khoảng 300 đến 1500 từ) được trình bày theo đúng cấu trúc và chuẩn mực của một tạp chí khoa học.
Các bài viết của Tạp chí hiện đang được trích dẫn bởi Google Scholar, WorldCat, Open Archives, Cosmos Impact Factor, Advanced Sciences Index, Scientific Indexing Services, CrossRef, EBSCO Information Services.
Mọi thông tin xin liên hệ: Phòng Tạp chí, 701 - E, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội. ĐT: 024.35581984; email: [email protected] hoặc [email protected] 

Các bài báo tiêu biểu

English Bestselling Fiction Study in the Context of Twentieth and Early Twenty-first Centuries
Tập 9 Số 5 - Trang 571-594 - 2023
Ta Thi Thanh Huyen
Bestselling fiction is an interesting and controversial phenomenon which attracts the attention of a wide range of academic circles from many areas such as socio-economic study, cultural study and literary study in nearly one hundred years. It has been studied firstly in English speaking countries where it was born, then extended to many other countries in Europe, America, Asia, and Pacific Islands. In Viet Nam, due to the newly formed market economy in postwar period, this phenomenon has just sprouted in Doi Moi literature. According to our investigation, there has not any theoretical and systematical research on this object in Viet Nam except for some short papers, not to mention applied studies. It is a gap need filling as soon as possible. The result of the first step of this task is introduced concisely in this paper that is a summarization of English bestselling fiction studies in the context of twentieth and early twenty-first centuries. Received 7 th August 2023; Revised 15 th September 2023; Accepted 30 th September 2023
#Bestseller #English Bestselling Fiction #Hype #Literature #Popular Culture
Sự hiện diện của Trung Quốc ở Mỹ La tinh và Caribbean cơ hội và thách thức
Tập 2 Số 1 - Trang 105-115 - 2016
Vũ Thị Anh Thư
Tóm tắt: Có ý kiến cho rằng sự có mặt của Trung Quốc tại khu vực Mỹ La tinh và Caribbean đơn giản vì mục đích kinh tế. Tuy nhiên, những đối tượng mục tiêu của hoạt động thương mại và đầu tư của Trung Quốc dường như cho thấy một ý đồ gia tăng ảnh hưởng chính trị tại khu vực này trong tương lai. Bài viết này nhằm mục đích trả lời câu hỏi là (I) lý do nào để Trung Quốc quan tâm tới khu vực LAC; và (II) cơ hội và thách thức gì cho khu vực LAC và Mỹ khi Trung Quốc tăng cường ảnh hưởng tại đó.  ----- The presence of China in the Latin America and Caribbean  opportunities and challenges   Abstract: It is sometimes argued that the presence of China in Latin America and the Caribbean region (LAC) is simply for economic purposes. However, objectives of China's trade and investment activities may suggest an intention of increasing its political influence in the region in the future. This article aims to answer the following questions: (i) the reasons why China is interested in LAC and (ii) what are opportunities and challenges for LAC and USA when China strengthens its influence the region.
#Trung Quốc #châu Mỹ La tinh #ngoại giao cờ vây #LAC #China.
Các giải pháp phát triển hệ thống sản phẩm, dịch vụ đảm bảo tính đồng bộ hình thành tuyến du lịch theo yêu cầu liên kết vùng Bắc - Nam Trung Bộ
Tập 3 Số 6 - Trang 678-690 - 2018
Đinh Nhật Lê, Trần Thị Minh Hòa
Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ có nhiều nét tương đồng để phát triển du lịch biển, đảo gắn với các di sản văn hóa đặc sắc và hệ sinh thái đa dạng. Khu vực duyên hải miền Trung trước đây vốn là nơi phải hứng chịu nhiều thiệt hại do thiên tai, bão lũ gây ra, đời sống của người dân rất khó khăn. Song, những năm qua, do được đầu tư mạnh mẽ, khu vực này đã từng bước thay đổi. Hoạt động du lịch phát triển đã thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế-xã hội về nhiều mặt. Tuy nhiên, thực tiễn phát triển du lịch của vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ còn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có, sản phẩm, dịch vụ còn thiếu đồng bộ, công tác quản lý nhà nước về du lịch chưa hiệu quả, thiếu tầm nhìn tổng thể và thiếu sự liên kết phát triển du lịch vùng cũng như liên vùng. Vấn đề đặt ra cho sự phát triển du lịch tại vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ là phải có được một hệ thống sản phẩm, dịch vụ đồng bộ, xây dựng các tuyến du lịch liên vùng để góp phần phát huy giá trị của hệ thống di sản, di tích, tối ưu hóa việc khai thác các tài nguyên du lịch cũng như có các định hướng phát triển du lịch theo hướng bền vững. Ngày nhận 31/5/2016; ngày chỉnh sửa 3/8/2017; ngày chấp nhận đăng 01/12/2017
#vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ #sản phẩm du lịch #tuyến du lịch #liên kết.
Family Life Stress, Coping, and Mental Health among Vietnamese Marriage Migrant Women in South Korea: A Mixed Methods Study
Tập 2 Số 2 - 2016
Nguyen Thi Phuong Thao
Vietnamese marriage migrant women experience multiple stressors associated with married life in South Korea. While there are a number of studies investigating acculturative stress, relatively little work has examined family life stress and its harmful effect on mental health among these marriage migrant women. The purpose of this paper is to explore the impact of family life stress on depression and the mediating roles of some personal coping resources (self-esteem and specific coping behaviors) on this relationship among a sample of Vietnamese marriage migrant women living in South Korea. The study utilizes a mixed methods design. A quantitative survey is completed by 301 Vietnamese migrant wives with a mean age of 29 years (SD=5.49). Qualitative interviews are conducted with five Vietnamese migrant wives and analyzed using thematic analysis. The findings indicate that family life stress is positively related to depression, both directly and indirectly through low self-esteem and greater use of avoidant coping. The study provides several implications for social work research and practice.
#Family life stress #coping #depression #Vietnamese marriage migrant women #South Korea.
Nhân học của Augustino
Tập 5 Số 2b - 2020
Vũ Thị Hải
Augustino là một trong những nhà thần học, triết học có ảnh hưởng lớn đến triết học phương Tây nói chung và triết học Kitô giáo nói riêng. Trong hệ thống tư tưởng của ông, quan niệm về con người đã mang lại những đóng góp lớn cho nền tư tưởng phương Tây và nền tư tưởng Kitô giáo. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ luận giải và trình bày một cách có hệ thống những vấn đề căn bản và quan trọng nhất của nhân học Augustino như: Con người có hiện hữu chân thật hay không? Con người từ đâu mà có? Con người là gì? Linh hồn là gì? Con người có tự do ý chí không? Đời sống nội tâm của con người như thế nào?
#nhân học #Augustino #nhân học Augustino #triết học Augustino #nhân học Kitô giáo
Khái niệm, hoạt động, các hướng đi mới nhất trong công tác xã hội với người cao tuổi tại Mỹ và những gợi ý cho Việt Nam
Tập 3 Số 4 - Trang 451-464 - 2017
Nguyễn Ngọc Hường, Nguyễn Mai Quỳnh Trang, Nguyễn Thu Trang
Theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở mới nhất của Việt Nam (2010), Việt Nam có khoảng 9 triệu người cao tuổi (NCT), chiếm 10,4% trên tổng số 86 triệu dân (Tổng cục Thống kê 2010). Phân bố dân số Việt Nam hiện tại đang ở cuối giai đoạn “dân số vàng”; với tỷ lệ người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ trọng cao trong tổng dân số. Tuy nhiên, do tỷ suất sinh giảm, tuổi thọ trung bình gia tăng và các nhân tố khác, dự tính đến năm 2017, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn già hóa dân số (aging) và đến năm 2032 sẽ sang giai đoạn “dân số già” khi NCT sẽ chiếm một tỷ lệ cao trên tổng dân số. Với tốc độ này, Việt Nam đang là quốc gia già hóa nhanh nhất trên thế giới (UNFPA 2011). Thực tế này đặt ra thách thức lớn cho Việt Nam trong việc phát triển các dịch vụ y tế và xã hội để chăm sóc cho NCT. Riêng với ngành CTXH, việc phát triển lĩnh vực CTXH với NCT trở nên vô cùng thiết yếu. Ở thời điểm hiện tại, về cơ bản, lĩnh vực này chưa thực sự phát triển ở Việt Nam. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ giới thiệu tổng thể về khái niệm, các cách tiếp cận chính, và một số xu hướng mới nhất trong CTXH với NCT tại Mỹ. Dựa trên các thông tin này và các đặc điểm đặc thù của dịch vụ xã hội Việt Nam, bài viết cũng sẽ đưa ra một số gợi ý cho Việt Nam trong việc phát triển CTXH với NCT. Ngày nhận: 26/1/2017; ngày chỉnh sửa 30/4/2017; ngày chấp nhận đăng 01/8/2017
#Công tác xã hội #người cao tuổi #công tác xã hội với người cao tuổi #Mỹ #Việt Nam.
Khoa Xã hội học: 25 năm đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế
Tập 2 Số 1b - Trang 1-5 - 2016
Nguyễn Thị Kim Hoa
Khoa Xã hội học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn có quyết định thành lập ngày 16/9/1991. Trải qua ¼ thế kỷ, Khoa Xã hội học đã đạt nhiều thành tích trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế và đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ. Qua 25 năm xây dựng và phát triển, Khoa Xã hội học luôn giữ vị trí hàng đầu về cơ sở đào tạo 2 ngành Xã hội học (XHH) và Công tác xã hội (CTXH), nâng cao nhận thức đội ngũ cán bộ, giảng viên, sinh viên, đồng thời đào tạo được nhiều nhà XHH Việt Nam trong tương lai và các cán bộ, chuyên viên CTXH xuất sắc. 1. Cơ cấu tổ chức của Khoa Trải qua nhiều tiến trình tách-nhập và thay đổi nhân sự, tính tới thời điểm hiện tại (Tháng 9/2016, tổng số cán bộ viên chức trong Khoa có 32 cán bộ, trong đó có 1 GS, 7 PGS.TS và 6 TS, 15 ThS (Trong đó có 11 NCS) và 3 CN (3NCS). Hiện nay có 5 cán bộ đang học tập và nghiên cứu ở nước ngoài (Mỹ, Pháp và Úc). Khoa Xã hội học có 6 Bộ môn: Lý thuyết và Phương pháp nghiên cứu XHH, XHH Văn hóa và Giáo dục, XHH Nông thôn và Đô thị, XHH Dân số và Môi trường, XHH Giới và Gia đình và Công tác xã hội, tăng thêm một tổ bộ môn thành 6 tổ và một tổ văn phòng. Số lượng cán bộ và số tổ bộ môn của giai đoạn này tuy không thay đổi nhiều so với các giai đoạn trước đó, nhưng có sự vượt trội về chất lượng. Dưới sự quy hoạch, đầu tư đào tạo nhân lực của Khoa, đến nay, 100% cán bộ giảng dạy đang theo học chương trình Nghiên cứu sinh trong và ngoài nước. Số lượng cán bộ được Nhà nước phong học hàm Giáo sư, Phó giáo sư cũng tăng mạnh so với các giai đoạn trước đó. 2. Công tác đào tạo Từ năm 1991 đến nay, Khoa Xã hội học tham gia đào tạo 2 ngành XHH và CTXH với các hệ chính quy, vừa học vừa làm, văn bằng II, cao học và nghiên cứu sinh. Nhiều sinh viên, học viên vừa học vừa làm, sau đại học, sau khi tốt nghiệp đang giữ những cương vị lãnh đạo quan trọng trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước ở cấp Trung ương và các cấp địa phương. Cán bộ của Khoa tham gia tích cực các chương trình đào tạo, bồi dưỡng do nhà trường phối hợp thực hiện với các đối tác Pháp và Mỹ. Ngành CTXH đang được Nhà nước coi trọng. Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25 tháng 3 năm 2010 về phê duyệt “Đề án phát triển ngành Công tác xã hội giai đoạn 2010-2020”; và Quyết định số 1791/QĐ-TTg ngày 15 tháng 9 năm 2016 công nhận ngày 25 tháng 3 hàng năm là “Ngày Công tác xã hội Việt Nam”. Hiện nay, Khoa Xã hội học là một trong những cơ sở đầu tiên đào tạo Tiến sĩ CTXH. Để nâng cao chất lượng đào tạo, từ năm 1991 đến nay, Khoa thường xuyên xây dựng, điều chỉnh khung chương trình đào tạo theo tín chỉ, theo chuẩn đầu ra phù hợp với nhu cầu của xã hội, xuất bản 40 cuốn bài giảng, giáo trình và nhiều sách tham khảo phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học. 3. Công tác nghiên cứu khoa học Là một đơn vị nghiên cứu khoa học có uy tín, chất lượng, đội ngũ giảng viên và sinh viên Khoa Xã hội học luôn đề cao và đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học. Giảng viên của Khoa còn kiêm nhiệm Giám đốc, Phó Giám đốc các trung tâm như: Trung tâm nghiên cứu ứng dụng và phát triển CTXH, Trung tâm Nghiên cứu Giới, Dân số, Môi trường và các vấn đề xã hội, Trung tâm phát triển Kỹ năng và Tri thức công tác xã hội (CSWD). Bên cạnh việc hoàn thành vượt mức nhiệm vụ trọng tâm là giảng dạy, 100% giảng viên của Khoa đã và đang chủ trì hoặc tham gia những đề tài nghiên cứu khoa học lớn từ cấp trường, cấp Bộ, cấp Đại học Quốc gia, cấp Nhà nước, các dự án của các tổ chức trong nước và quốc tế. Cho tới nay, cán bộ của Khoa đã chủ trì 12 đề tài cấp nhà nước, 5 đề tài Nafosted, 19 đề tài cấp ĐHQG, 80 đề tài của các Bộ, Ban ngành và các tổ chức Quốc tế khác (Tổng cục DS, Jiff, Toyota, Ngân hàng thế giới, UNDP….), như PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Hoa, PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hà, PGS.TS. Trịnh Văn Tùng, PGS.TS. Nguyễn Tuấn Anh, PGS.TS. Nguyễn Hồi Loan, GS.TS Hoàng Bá Thịnh, PGS.TS. Hoàng Thu Hương, PGS.TS. Phạm Văn Quyết... Bên cạnh đó, nhiều cán bộ trẻ trong Khoa đã tham gia khảo sát viết báo cáo chuyên đề cho các đề tài. Nhìn chung, công tác nghiên cứu khoa học của Khoa đã ít nhiều khẳng định rằng với một cơ sở đào tạo, mối liên kết giảng dạy-nghiên cứu khoa học-thị trường nhân lực là một hướng đi quan trọng. Mặt khác, thông qua các đề tài, trình độ chuyên môn nghề nghiệp của cán bộ được nâng lên, nội dung giảng dạy ngày càng gắn liền với đời sống xã hội. 4. Tổ chức các hội thảo khoa học Hàng năm, Khoa đều tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị khoa học các cấp, tạo diễn đàn khoa học cho việc chia sẻ các kết quả và kinh nghiệm nghiên cứu cập nhật trong cả hai lĩnh vực, Xã hội học và Công tác Xã hội. Khoa Xã hội học đã tổ chức hơn 30 hội thảo cấp bộ môn và cấp khoa, tạo diễn đàn nâng cao năng lực và chia sẻ thông tin cho các giảng viên, các nhà nghiên cứu và sinh viên trong trường. Một số cuộc hội thảo lớn gần đây như sau: Hội thảo “Chính sách xã hội và công tác xã hội” tháng 6/2012 với hơn 100 đại biểu trong nước và 40 đại biểu quốc tế. Hội thảo “ Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về công tác xã hội và an sinh xã hội ” trong khuôn khổ kỷ niệm ngày công tác xã hội thế giới tại Việt Nam năm 2012 với sự tham gia của giảng viên, các nhà khoa học đến từ các trường đại học trong cả nước và nhiều chuyên gia nước ngoài; Hội thảo “ Vai trò của Xã hội học và Công tác xã hội trong sự nghiệp phát triển xã hội hiện nay”  với sự tham gia của các Trường đào tạo xã hội học và công tác xã hội trong cả nước tháng 11/2013. Ngoài các cuộc Hội thảo lớn kể trên, Khoa cũng đã tổ chức hơn 20 hội thảo cấp bộ môn, cấp khoa, hội thảo đề tài cấp nhà nước thu hút nhiều cán bộ giảng viên trong Khoa tham gia viết bài, nhiều học viên và sinh viên đến tham dự hội thảo.  Khoa Xã hội học luôn quan tâm và tạo điều kiện cho các cán bộ tham dự các hội nghị, hội thảo trong nước và ngoài nước. Việc tổ chức các hội thảo khoa học không chỉ để tạo ra những diễn đàn để cán bộ có cơ hội thông báo những kết quả nghiên cứu, mà quan trọng hơn là phía sau diễn đàn đã có những mối liên hệ khoa học mở ra. Đồng thời, Hội thảo là một giảng đường đại học hết sức bổ ích cho những cán bộ đang cần học hỏi hơn nữa. 5. Hợp tác quốc tế Hai mươi lăm năm qua Khoa Xã hội học đã hợp tác với hơn 20 trường Đại học và các tổ chức Quốc tế. Năm 2005, Khoa XHH được kết nạp vào Hội XHH Thế giới. Đặc biệt từ năm 2011 đến nay, Khoa đã phối hợp với các Trường ĐH Toulouse II (Pháp), Trường Đại học San Jose (Mỹ), Trường Đại học Shukutoku (Nhật Bản), Trường Đại học Lund (Thuỵ Điển), Trường Đại học Degu (Hàn Quốc), Trường Đại học Memorial (Canada),… để phối hợp nghiên cứu và tập huấn về phương pháp nghiên cứu khoa học về đào tạo xã hội học và công tác xã hội. Trong từng lĩnh vực, cụ thể như sau: Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo Khoa Xã hội học phát triển các hoạt động hợp tác quốc tế để nâng cao chất lượng giảng dạy tại Khoa. Cán bộ của Khoa tham gia tích cực vào công tác tổ chức và đào tạo 10 khóa (2006-2016) của chương trình đào tạo thạc sĩ quốc tế xã hội học ứng dụng trong “quản lý tổ chức” (MADO) nay là “quản lý chính sách công và doanh nghiệp” (MAPE), thạc sỹ Quản lý tổ chức của Đại học Toulouse 2 le Mirail nay là Đại học Toulouse 2-Jean Jaures. Được sự tài trợ của UNICEF, Khoa Xã hội học đã phối hợp với nhà trường đào tạo 4 khóa “Bồi dưỡng chứng chỉ sau đại học ngành công tác xã hội” với 120 học viên là cán bộ giảng dạy, cán bộ đang làm việc ở các cơ quan, các tổ chức liên quan đến Công tác xã hội trong cả nước. Nhờ vậy, chương trình đào tạo Thạc sĩ ngành Công tác xã hội đã được cập nhật và mang tính hội nhập quốc tế cao. Giảng viên là các chuyên gia quốc tế, các nhà khoa học có uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu, đào tạo CTXH đến từ Mỹ, Anh, Australia, Canada… trực tiếp giảng dạy.  Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu Trong 25 năm qua, Khoa Xã hội học đã hợp tác với nhiều đối tác quốc tế có uy tín cao trong đào tạo và nghiên cứu 2 ngành XHH và CTXH. Những sản phẩm hợp tác quốc tế như: Kỷ yếu hội thảo quốc tế, sách, bài báo khoa học hay các dịch vụ phát triển cộng đồng là những minh chứng quan trọng. Dựa trên tiêu chí kết quả hợp tác, chúng ta có thể kể tên 1 số đối tác quan trọng như sau: Đại học Toulouse 2 le Mirail nay là Đại học Toulouse 2-Jean Jaures, cộng hòa Pháp đã và đang cùng với cán bộ của khoa đào tạo 10 khóa thạc sĩ xã hội học ứng dụng, nghiên cứu phát triển cộng đồng tại Mộc Châu-Sơn La, cùng đào tạo tiến sĩ. Đại học San Jose States, California đã đào tạo cán bộ giảng viên tại Viện Quản lý lãnh đạo giảng viên cao cấp về CTXH; tổ chức nhiều cuộc tọa đàm và hội thảo về thăng tiến nghề CTXH ở Việt Nam Đại học Lund (Thụy Điển) là một đối tác quan trọng của khoa trong thời gian qua trong dự án nghiên cứu so sánh về hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Hiện nay, một cuốn sách quốc tế đang được tiến hành làm thủ tục xuất bản tại Thụy Điển.  Đại học Fukushima & Shukutoku Nhật Bản cũng đã phối hợp với cán bộ của Khoa trong nghiên cứu về chủ đề “Phật giáo với Công tác xã hội”. Nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo quốc tế đã được tổ chức và những ấn phẩm từ hoạt động hợp tác nghiên cứu đã được đón nhận.  Dựa trên những thành tựu hợp tác quốc tế của các thế hệ thầy, cô đi trước, Khoa đã duy trì và phát huy lợi thế và nguồn lực để hợp tác với nhiều đối tác khác như: Đại học Tổng hợp LODZ Ba Lan, Viện Xã hội học Cộng hòa dân chủ Đức, Trường Đại học Tổng hợp Humbolt, Trung tâm dân số sinh thái Khoa Xã hội học-Trường Đại học Tổng hợp Bang Washington (Hoa Kỳ), Trường Louvain (Bỉ), Đại học Paris 7 (Pháp), Đại học Belfield (Đức), Trung tâm Quốc tế và phát triển Nhật Bản, Đại học Michigan (Mỹ), Đại học Tổng hợp Quốc gia Matxcova (Nga),… Khoa Xã hội học đã tận dụng tốt tính chất vừa hàn lâm, vừa ứng dụng của các ngành Xã hội học và Công tác xã hội nên đã đấu thầu nhiều đề án quốc tế thành công do các tổ chức lớn tài trợ như UNICEF, Ngân hàng thế giới, Ford, Tổ chức Radda Barnen, British Council, UNFPA, SIDA, Quỹ Toyota… 6. Kế hoạch phát triển Khoa Xã hội học (2016-2021) Định hướng phát triển của Khoa Xã hội học trong thời gian tới có thể tóm tắt trên những nét chính sau đây: - Xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy đạt chuẩn cao, có tính chuyên nghiệp đáp ứng nhiệm vụ chiến lược của Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội. Giữ vững và khẳng định vị trí hàng đầu trong cả nước của Khoa XHH về đào tạo 2 ngành XHH và CTXH. Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế. - Tiếp tục chuẩn hoá, hiện đại hoá hoạt động đào tạo trong Khoa, điều chỉnh, bổ sung ngành nghề đào tạo một cách hợp lý, tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo, thực hiện tốt đổi mới phương pháp giảng dạy và chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra. Năm 2017 đào tạo chất lượng cao cử nhân ngành Xã hội học. - Xây dựng đề án thành lập Viện Xã hội học và CTXH theo sự chỉ đạo của nhà trường để có thêm chỉ tiêu nghiên cứu viên, phục vụ công tác nghiên cứu khoa học của Khoa. - Đẩy mạnh các hoạt động của “Trung tâm nghiên cứu ứng dụng và phát triển CTXH”, thúc đẩy nghiên cứu, thử nghiệm các mô hình cung cấp dịch vụ CTXH mới và chuyển giao kỹ thuật cho các địa phương. - Xây dựng “Phòng thực hành Công tác xã hội và Phát triển cộng đồng” năm 2017 do Đại học Quốc gia hỗ trợ kinh phí - Tăng cường tổ chức các buổi toạ đàm khoa học, Hội thảo khao học, động viên cán bộ Khoa biên tập, hoàn thiện các bài giảng, giáo trình, các báo cáo tổng kết đề tài để in ấn, xuất bản; mở rộng, liên kết chặt chẽ với các nhà khoa học trong và ngoài trường trong công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học. - Chỉ đạo xây dựng phát triển và đào tạo liên thông 2 ngành XHH và CTXH. Năm 2017 sẽ đào tạo theo chuyên ngành CTXH. Thiết lập mạng lưới các cơ sở thực hành, thực tập cho sinh viên chuyên ngành CTXH. Đề xuất những chính sách, chế độ, chế tài, kinh phí cụ thể để sinh viên có thể có những cơ sở thực tập tốt. - Xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh chuyên ngành XHH. Nghiên cứu định vị ngành XHH và CTXH. 7. Kết luận Trong chặng đường ¼ thế kỷ phát triển Khoa Xã hội học, Ban chủ nhiệm Khoa trong các nhiệm kỳ luôn có ý thức chăm lo, xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Khoa, tạo điều kiện thuận lợi để các cán bộ có cơ hội được đào tạo và phát triển, từ đó góp phần duy trì vai trò cơ sở đào tạo đứng đầu trong cả nước về hai ngành Xã hội học và Công tác xã hội. Đến nay, nhiều cán bộ trong Khoa đã trở thành những chuyên gia nghiên cứu, giảng dạy giỏi, có phẩm chất đạo đức, lương tâm nghề nghiệp tốt, phẩm chất chính trị vững vàng, đủ năng lực kế thừa, tiếp nối các thế hệ đi trước, phát triển ngành mạnh mẽ hơn. Khoa là một tập thể sư phạm đoàn kết, sinh hoạt dân chủ, cán bộ quan hệ hợp tác với các đối tác trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học ngày càng mở rộng, nhờ đó đã thực hiện liên kết và tham gia nhiều đề tài, dự án cấp trường, cấp Bộ, cấp Nhà nước. Trên cơ sở đó Khoa đã tổ chức, xây dựng các nhóm nghiên cứu cho cán bộ và học viên cao học của Khoa tham gia, đặc biệt giúp cho cán bộ trẻ trong Khoa có nhiều cơ hội được đào tạo và phát triển nhanh ngành nghề của mình. Sự nghiệp xây dựng và phát triển Khoa Xã hội học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đòi hỏi phải có tầm nhìn chiến lược, toàn thể cán bộ, học viên, sinh viên Khoa Xã hội học phải nỗ lực hơn nữa để Khoa luôn luôn hoàn thành sứ mệnh lớn lao của mình.
Tổng quan về chính sách phát triển tổ chức vệ tinh (spin-off) thành doanh nghiệp khởi nghiệp trong trường đại học: Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam
Tập 6 Số 2b - Trang 229-239 - 2021
Nguyễn Thị Tuyết Mai
Spin-off là mô hình công ty khởi nghiệp do các nhà khoa học nghiên cứu ra công nghệ đồng sở hữu với các cơ quan nghiên cứu, được quản lý độc lập với cơ sở nghiên cứu, là mô hình phổ biến từ lâu ở các nước đang phát triển. Ở Việt Nam spin-off nói chung, trong các trường đại học nói riêng đang trở thành xu thế tất yếu của tự chủ đại học. Bên cạnh mô hình trường đại học truyền thống với sứ mệnh đào tạo và công bố kết quả nghiên cứu, mô hình spin-off trong trường đại học còn thực hiện nhiệm vụ thứ ba là đóng góp các kết quả nghiên cứu vào thực tế sản xuất và đời sống bằng cách đẩy mạnh giáo dục khởi nghiệp thông qua các chương trình đào tạo, hỗ trợ tạo ra hệ sinh thái khởi nghiệp. Tuy nhiên, giữa thế giới và Việt Nam, giữa lý thuyết lý tưởng và thực tiễn triển khai là cả một khoảng cách cần được sớm rút ngắn. Trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu nền tảng đi trước trên thế giới và của các nhà khoa học trong nước, bài viết nêu ra những vấn đề cho spin-off trong trường đại học ở Việt Nam cũng như khuyến nghị giải pháp chính sách trong thời gian tới. Ngày nhận 20/10/2020; ngày chỉnh sửa 15/12/2020; ngày chấp nhận đăng 30/12/2020
#Spin-off #giáo dục đại học #doanh nghiệp #khởi nghiệp
Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo công tác giao thông vận tải trong những năm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965 - 1968)
Tập 5 Số 2b - 2020
Phạm Thị Thu Trang
Trong kháng chiến chống Mỹ, Hải Phòng là một địa bàn chiến lược về chính trị, kinh tế, an ninh và quốc phòng, không chỉ đối với miền Bắc mà đối với cả Việt Nam. Với ưu thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, Hải Phòng nhanh chóng trở thành một đầu mối giao thông quan trọng với hệ thống giao thông thuỷ, bộ, đường sắt, hàng không, là cửa chính ra biển của Thủ đô Hà Nội và các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Vì vậy, ngay từ khi tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại (CTPH) lần thứ nhất (1965-1968), Mỹ đã coi Hải Phòng là một mục tiêu trọng điểm của mọi hành động gây tội ác. Giao thông vận tải trở thành một trong những mặt trận nóng bỏng nhất, chứng kiến sự ác liệt cao độ của một cuộc chiến tranh không cân sức. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Hải Phòng, quân và dân thành phố Cảng đã kiên cường bám sông, bám biển, gắn bó chặt chẽ với cầu, đường, phương tiện, vừa chiến đấu, vừa làm nhiệm vụ giao thông vận tải, bảo đảm sự chi viện toàn diện, liên tục, mạnh mẽ của hậu phương cho tiền tuyến, góp phần đánh bại cuộc CTPH lần thứ nhất và thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Khả năng đáp ứng của các dịch vụ công tác xã hội bệnh viện với nhu cầu của người bệnh tại bệnh viện tuyến trung ương và địa phương hiện nay
Tập 7 Số 2b - Trang 238-255 - 2021
Đặng Kim Khánh Ly
Từ năm 2011, Bộ Y tế đã triển khai phát triển các mô hình công tác xã hội trong bệnh viện trên cơ sở Đề án “Phát triển nghề công tác xã hội trong ngành Y tế giai đoạn 2011-2020” theo Quyết định 2514/QĐ-BYT của Bộ Y tế ngày 15/7/20211. Những hoạt động của đề án hướng đến hỗ trợ toàn diện cho quá trình chăm sóc sức khỏe nhân dân, hỗ trợ các nhóm yếu thế trong bệnh viện được tiếp cận hiệu quả các dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong điều kiện của bệnh viện cũng như cải thiện mối quan hệ giữa bệnh nhân và nhân viên y tế. Việc phát triển mô hình công tác xã hội trong bệnh viện đã tạo ra những hiệu quả nhất định trong giảm tải những áp lực trong công tác điều trị cho đội ngũ y bác sỹ, giúp người bệnh, đặc biệt là nhóm bệnh nhân yếu thế dễ dàng hơn trong tiếp cận với các hệ thống nguồn lực xã hội trong quá trình điều trị tại bệnh viện. Chặng đường 10 năm phát triển hoạt động công tác xã hội trong bệnh viện, liệu các dịch vụ công tác xã hội trong bệnh viện ở Việt Nam hiện nay đã đáp ứng được những nhu cầu của người bệnh ra sao, bài viết sẽ phân tích những dịch vụ công tác xã hội đang được cung cấp tại bệnh viện so sánh với mục tiêu kỳ vọng của đề án phát triển công tác xã hội trong bệnh viện của Việt Nam và phân tích sự đáp ứng của các dịch vụ đó qua những đánh giá của nhóm người cung cấp và thụ hưởng dịch vụ công tác xã hội bệnh viện hiện nay. Ngày nhận 10/8/2021; ngày chỉnh sửa 13/8/2021; ngày chấp nhận đăng 30/10/2021
#công tác xã hội #công tác xã hội bệnh viện #dịch vụ công tác xã hội #dịch vụ công tác xã hội bệnh viện