Cost of healthcare for patients with migraine in five European countries: results from the International Burden of Migraine Study (IBMS) Tập 13 Số 5 - Trang 361-378 - 2012
Lisa Bloudek, Michael Stokes, Dawn C. Buse, Teresa K. Wilcox, Richard B. Lipton, Peter J. Goadsby, Sepideh F. Varon, Andrew Blumenfeld, Zaza Katsarava, Julio Pascual, Michel Lantéri‐Minet, Pietro Cortelli, Paolo Martelletti
The impact of headache in Europe: principal results of the Eurolight project - 2014
Timothy J. Steiner, Lars Jacob Stovner, Zaza Katsarava, José Miguel Láinez, Christian Lampl, Michel Lantéri-Minet, Daiva Rastenytė, Elena Ruiz de la Torre, Cristina Tassorelli, Jessica Barré, Colette Andrée
Headache, depression and anxiety: associations in the Eurolight project Tập 17 Số 1 - 2016
Christian Lampl, Hallie Thomas, Cristina Tassorelli, Zaza Katsarava, José Miguel Láinez, Michel Lantéri-Minet, Daiva Rastenytė, Elena Ruiz de la Torre, Lars Jacob Stovner, Colette Andrée, Timothy J. Steiner
Phân tích thực tế triển vọng của erenumab ở bệnh nhân chứng đau nửa đầu mạn tính kháng trị Dịch bởi AI Tập 21 Số 1 - 2020
Giorgio Lambru, Bethany Hill, M Stephen Murphy, Ivona Tylova, Anna P. Andreou
Tóm tắt
Đặt vấn đề
Các thử nghiệm lâm sàng đã chứng minh tính an toàn và ưu thế lâm sàng của erenumab so với giả dược trong trường hợp đau nửa đầu mãn tính (CM). Mục tiêu của phân tích này là đánh giá tính hiệu quả và khả năng dung nạp của erenumab trong môi trường thực tế đối với bệnh nhân bị CM kháng trị.
Phương pháp
Đây là một cuộc kiểm toán thực tế một trung tâm triển vọng được thực hiện trên bệnh nhân bị CM có và không lạm dụng thuốc, kháng trị với các thuốc phòng ngừa đã được thiết lập, những người đã được điều trị bằng erenumab hàng tháng trong 6 tháng.
Kết quả
Trong số 164 bệnh nhân được điều trị, 162 bệnh nhân (nữ = 135, độ tuổi trung bình 46 ± 14,3 tuổi) đã được đưa vào kiểm toán. Bệnh nhân đã không thành công với trung bình 8,4 phương pháp điều trị dự phòng tại thời điểm xuất phát và 91% bệnh nhân đã không đạt hiệu quả với chất độc botulinum loại A tại thời điểm xuất phát. Giảm trung bình số ngày đau nửa đầu hàng tháng là 6,0 ngày tại tháng 3 (P = 0.002) và 7,5 ngày tại tháng 6 (P < 0.001) so với mức ban đầu. Giảm trung bình số ngày đau đầu hàng tháng là 6,3 ngày (P < 0.001) tại tháng 3 và 6,8 ngày (P < 0.001) tại tháng 6. Tại tháng 3, 49%, 35% và 13% và tại tháng 6, 60%, 38% và 22% bệnh nhân đạt được ít nhất giảm 30%, 50% và 75% số ngày đau nửa đầu, tương ứng. Tỷ lệ bệnh nhân có lạm dụng thuốc đã giảm từ 54% tại thời điểm xuất phát xuống 20% tại tháng 3 và 25% tại tháng 6. So với thời điểm xuất phát, giảm trung bình điểm số của Bài kiểm tra Tác động Đau đầu-6 là 7,7 điểm tại tháng 3 (từ 67,6 ± 0,4 còn 59,9 ± 0,9) (P < 0.001) và 7,5 điểm tại tháng 6 (60,1 ± 1,3) (P = 0.01). Tỷ lệ bệnh nhân bị khuyết tật nặng liên quan đến đau đầu (HIT-6: 60–78) đã giảm từ 96% tại thời điểm xuất phát xuống 68% sau ba lần điều trị hàng tháng và 59% sau sáu lần điều trị. Ít nhất một tác dụng phụ được báo cáo bởi 48% bệnh nhân tại tháng 1, 22% tại tháng 3 và 15% tại tháng 6. Táo bón (20%) và các triệu chứng giống cảm cúm (15%) là những sự kiện bất lợi thường gặp nhất đã được báo cáo.
Kết luận
Erenumab có thể là một liệu pháp hiệu quả và được dung nạp tốt đối với bệnh nhân CM kháng trị về mặt y tế có và không có lạm dụng thuốc.