Tạp chí Y học Dự phòng

  0868-2836

 

 

Cơ quản chủ quản:  N/A

Lĩnh vực:

Các bài báo tiêu biểu

Tình trạng sâu răng sữa ở trẻ em Việt Nam năm 2019
Tập 30 Số 1 - Trang 123-129 - 2020
Nguyễn Thị Hồng Minh, Trịnh Đình Hải
Sâu răng sữa ở trẻ em được ghi nhận bởi chỉ số răng sâu – mất – trám (DMFT) và chỉ số mặt răng sâu – mất – trám (DMFS) theo tiêu chí của Tổ chức Y tế thế giới kết hợp với chỉ số sâu răng sớm của ICIDAS. Nghiên cứu mô tả cắt ngang nhằm xác định tình trạng sâu răng sữa ở trẻ em Việt Nam năm 2019, từ đó hoạch định các biện pháp dự phòng sâu răng cho trẻ em trước tuổi đi học trong thời gian tới. Với cỡ mẫu 4028 trẻ em chia làm 2 lứa tuổi (6 – 8 tuổi và 9 – 11 tuổi) được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên, phân tầng nhiều giai đoạn từ 14 tỉnh thành đại diện cho cả nước theo các vùng địa lý. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ sâu răng sữa ở nhóm tuổi 6 - 8 tuổi là rất cao (86,4%), trung bình mỗi trẻ có 6,21 răng bị sâu, tỷlệ răng được điều trị thấp. Kết quả này cho thấy cần đẩy mạnh hơn nữa các biện pháp chăm sóc sức khỏe răng miệng cho trẻ em lứa tuổi mầm non.
#Sâu răng sữa #trẻ em #Việt Nam
Ảnh hưởng của đại dịch COVID – 19 đến công việc, cuộc sống và sức khỏe tâm thần của người dân tỉnh Thái Nguyên năm 2020
Tập 31 Số 2 - Trang 49-55 - 2021
Hoàng Minh Nam, Hòa Thị Hồng Hạnh, Trần Thị Hồng Vân, Nguyễn Thị Quyên, Nguyễn Thị Phương Lan, Hạc Văn Vinh, Trịnh Quỳnh Giang
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu mô tả sự ảnh hưởng của đại dịch COVID - 19 đối với công việc, cuộc sống và sức khỏe tâm thần của người dân tỉnh Thái Nguyên năm 2020. Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 350 đối tượng là người dân sinh sống tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên, tự nguyện điền phiếu trực tuyến. DASS 21 được sử dụng để đánh giá sức khỏe tâm thần. Kết quả cho thấy, có 55,71% đối tượng nghiên cứu chịu những ảnh hưởng tiêu cực từ dịch COVID-19 (mất việc, tăng/giảm giờ làm…); 64,86% đối tượng phải cắt giảm chi tiêu hoặc nhân sự trợ giúp từ các tổ chức, cá nhân. Tỷ lệ có các dấu hiệu từ nhẹ đến rất nặng lo âu là 12,29%, trầm cảm là 16% và sang chấn tâm lý là 12,29%. Nhóm đối tượng có độ tuổi 40 - 49 lo âu bằng 0,22 lần so với nhóm dưới 30 tuổi, 95%CI (0,07 - 0,76); nhóm hộ ngheo, cận ngheo có tỷ lệ sang chấn tâm lý gấp 5,12 lần so với nhóm có điều kiện kinh tế bình thường, 95%CI (1,40 - 18,67) và nhóm đối tượng có đi qua vùng dịch có tỷ lệ trầm cảm cao gấp 6,6 lần so với nhóm không đi qua vùng dịch, 95%CI (1,19 - 36,58). Dịch COVID-19 ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập của người dân, đồng thời cũng gây rối loạn sức khỏe tâm thần của họ.
#COVID-19 #sức khỏe tâm thần #Thái Nguyên
Thực trạng cận thị của học sinh tại một số tỉnh ở Việt Nam năm 2019
- 2020
Nguyễn Thị Huyền, Doãn Ngọc Hải, Dương Chí Nam, Nguyễn Đức Sơn, Lỗ Văn Tùng, Nguyễn Thị Bích Thủy, Nguyễn Trường Giang, Bùi Hữu Toàn
Mục tiêu của nghiên cứu là mô tả thực trạng cận thị ở học sinh tại 4 tỉnh miền Bắc, Miền Trung và Miền Nam (Hà Nội, Yên Bái, Hà Tĩnh và Cần Thơ) của Việt Nam. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 7217 học sinh đại diện cho khu vực thành phố và nông thôn, và đại diện cho bậc học. Tật cận thị ở học sinh được khám, chẩn đoán theo phương pháp chủ quan bằng bảng thị lực nhìn xa 5 mét. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ giảm thị lực của học sinh chiếm 34,8% và tăng dần theo bậc học (tiểu học là 23,2%, trung học cơ sở là 36,7%, và trung học phổ thông là 43,8%, p<0,001). Tỷ lệ học sinh bị cận thị chiếm 32,8%, viễn thị là 0,1%, loạn thị là 0,7%, tăng dần theo bậc học (tiểu học: 21,6 %, trung học cơ sở: 34,5%, trung học phổ thông: 41,9%, p<0,001), ở thành phố cao hơn so với nông thôn (42,4% so với 22,9%; p<0,001).
#Giảm thị lực #tật khúc xạ #cận thị #học sinh
Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Ba Vì thành phố Hà Nội năm 2019
Tập 30 Số 5 - Trang 82-89 - 2020
Trần Quang Trung, Nguyễn Thị Thùy Linh, Lê Thị Hiên, Nguyễn Thị Thu Hiền, Bùi Thị Quỳnh Trâm, Nguyễn Thị Kiều Anh, Nguyễn Thị Hải Yến, Hoàng Đức Phúc
Mục tiêu của nghiên cứu là mô tả thực trạng dinh dưỡng trẻ em và một số yếu tố liên quan ở dưới 5 tuổi tại huyện Ba Vì thành phố Hà Nội năm 2019. Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 1517 trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Ba Vì thành phố Hà Nội từ tháng 6 đến tháng 12 năm 2019. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân, thấp còi, gầy còm và thừa cân béo phìở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Ba Vì năm 2019 lần lượt là 9,1%, 14,9%, 5,4% và 3,4%. Tỷ lệ trẻ SDD nhẹ cân và thấp còi trong nghiên cứu khá cao so với các quận huyện khác tại Hà Nội. Yếu tố tuổi và cân nặng sơ sinh liên quan đến suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Ba Vì. Do đó, cần đề xuất biện pháp cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em tại huyện Ba Vì, đặc biệt cần quan tâm đến theo dõi và chăm sóc phụ nữ trong quá trình mang thai.
#Dinh dưỡng #trẻ em dưới 5 tuổi #Ba Vì #Hà Nội
Khảo sát đặc điểm vi khuẩn gây viêm phổi bệnh viện tại khoa hồi sức tích cực Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2020 - 2021
Tập 33 Số 1 - Trang 102-110 - 2023
Lương Thị Hồng Nhung, Nguyễn Thị Thu Thái, Hoàng Anh, Trần Thị Kim Hạnh
Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi cứu để xác định nguyên nhân gây viêm phổi bệnh viện và khả năng kháng kháng sinh của các vi khuẩn phân lập được tại khoa Hồi sức tích cực Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, năm 2020 - 2021. Kết quả: Trong 467 mẫu có 30,5% (145/467) mẫu bệnh phẩm phân lập được tác nhân gây bệnh, đờm chiếm tỷ lệ 45,8% (66/145), máu 28,3% (41/145), dịch màng phổi 11,8% (17/145), dịch nội khí quản 6,3% (9/145). Vi khuẩn phân lập được: P. aeruginosa 22,1% (32/145), K. pneumoniae 19,3% (28/145), A. baumannii 17,9 (26/145), E. coli 15,2% (22/145), và S. aureus 9,7% (14/145). Mức độ kháng kháng sinh: A. baumannii kháng với các kháng sinh được thử nghiệm từ 50 – 100%, chưa kháng colistin. E. coli và K. pneumoniae kháng kháng sinh nhóm beta lactam (> 80%), nhóm quinolon > 70%, P.aeruginosa kháng các kháng sinh: Ceftazidime, Gentamicin, Levofloxacin, Ofloxacin từ 51,7 – 53,8%. S. aureus đề kháng hoàn toàn với kháng sinh Penicillin G (100%), đề kháng nhóm Macrolid từ 72 – 87,5%, chưa kháng Vancomycin. Kết luận: Căn nguyên gây viêm phổi bệnh viện chủ yếu là P.aeruginosa, K. pneumoniae, A. baumannii, E. Coli, S. aureus. Các vi khuẩn phân lập được có tỷ lệ kháng kháng sinh cao và đa kháng thuốc, A.baumannii chưa kháng lại Colistin và S.aureus chưa phát hiện kháng Vancomycin.
#Viêm phổi bệnh viện #kháng kháng sinh #khoa hồi sức tích cực #Thái Nguyên
Nồng độ Non-HDL Cholesterol ở bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 tại bệnh viện trường Đại học Y Dược Thái Nguyên
Tập 31 Số 9 Phụ bản - Trang 170-177 - 2021
Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Thị Ngọc Huyền
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 216 bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện trường Đại học Y Dược Thái Nguyên nhằm mô tả mối liên quan giữa nồng độ non-HDL-C huyết tương với nguy cơ bệnh tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2. Kết quả cho thấy nồng độ non-HDL - C là 4,00 ± 1,09 mmol/L, tỷ lệ tăng non-HDL-C là 46,3%. Nồng độ và tỷ lệ rối loạn một số chỉ số lipid huyết tương khác gồm cholesterolTP, triglycerid, HDL-C, LDL-C, tương ứng là 5,11 ± 1,09 mmol/L; 44,9%, 2,65 ± 1,63 mmol/L; 71,3%, 1,10 ± 0,28 mmol/L; 44,9%, 2,94 ± 0,97 mmol/L; 44,9%. Có 40,4% số bệnh nhân có nồng độ LDL - C trong giới hạn bình thường nhưng tăng nồng độ non-HDL-C. Có mối tương quan thuận, mức độ khá chặt, có ý nghĩa giữa nồng độ nonHDL - C với nồng độ LDL - C huyết tương với r = 0,73; p < 0,05. Có mối tương quan thuận, mức độ yếu, có ý nghĩa giữa nồng độ non-HDL - C với nguy cơ mắc BTM 10 năm với r = 0,23; < 0,05. Cần đánh giá nồng độ non-HDL-C ở bệnh nhân đái tháo đường vì có tỷ lệ khá cao bệnh nhân có nồng độ LDL-C đạt mục tiêu nhưng nồng độ non-HDL-C tăng.
#Đái tháo đường #non-HDL-C #yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch #bệnh viện trường Đại học Y Dược Thái Nguyên
Rối loạn giấc ngủ, sức khỏe thể chất và một số yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường týp 2 đang điều trị ngoại trú tại tỉnh Yên Bái, Việt Nam
Tập 31 Số 9 - Trang 117-125 - 2021
Nguyễn Thị Hoa Huyền, Bùi Thị Hiền, Đặng Thu Thủy
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 275 người bệnh đái tháo đường týp 2 đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện Nội tiết tỉnh Yên Bái nhằm mô tả tình trạng sức khỏe thể chất, rối loạn giấc ngủ, và một số yếu tố liên quan đến sức khỏe thể chất. Kết quả cho thấy người bệnh có rối loạn giấc ngủ, chiếm 52%. Điểm trung bình sức khỏe thể chất của người bệnh là 61,5 ± 19,1. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất bao gồm: tuổi (Beta = -0,8, p < 0,001), giới tính nữ (Beta = -4,2, p < 0,05), số lượng biến chứng (Beta = -7,0, p < 0,001), số lượng bệnh kèm theo (Beta = -4,6, p < 0,001), chỉ số HbA1c (Beta = -3,5, p < 0,001); nhóm người bệnh: là cán bộ viên chức (Beta = 7,7, p < 0,05), hưu trí (Beta = 9,3, p < 0,001), và có thời gian bệnh ≥ 10 năm (Beta = -4,6, p < 0,05). Vì vậy, để nâng cao sức khỏe thể chất cho người bệnh, nhân viên y tế cần chú ý tới nhóm người cao tuổi, nữ giới, chỉ số HbA1c cao, người bệnh có các biến chứng và bệnh lý kèm cũng như nhóm người bệnh làm ruộng và có thời gian mắc bệnh ≥ 10 năm.
#Rối loạn giấc ngủ #; sức khỏe thể chất #đái tháo đường týp 2
Kiến thức, thực hành về sử dụng kháng sinh của bệnh nhân tại trạm y tế xã của một số vùng miền Việt Nam năm 2018 - 2019
Tập 30 Số 10 - Trang 84-94 - 2021
Trần Thị Mai Hưng, Trần Huy Hoàng, Dương Thị Hồng, Nguyễn Trần Hiển, Lương Minh Tân, Nguyễn Thị Lan Phương, Nguyễn Thị Minh, Hồ Hoàng Dung, Nguyễn Thị Lan Anh, Đặng Đức Anh
Nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng kiến thức và thực hành về việc sử dụng kháng sinh của người dân một số vùng miền của Việt Nam năm 2018 – 2019. Nghiên cứu được thực hiện trên 1200 đối tượng bằng phương pháp mô tả cắt ngang tại ba miền Bắc, Trung, Nam. Kết quả cho thấy thực trạng sử dụng kháng sinh trong cộng đồng khá phổ biến: 34,3% bệnh nhân trả lời có sử dụng kháng sinh và 49,9% các thành viên trong gia đình có sử dụng kháng sinh. Tỷ lệ này cao nhất ở miền Bắc là 40,5% và 68,9%. 39% người tham gia nghiên cứu có kiến thức tốt về sử dụng kháng sinh và 16,7% số người tham gia nghiên cứu đạt thực hành tốt về sử dụng kháng sinh. 55,8% gia đình của người tham gia nghiên cứu sử dụng kháng sinh không kê đơn và có 66,2% gia đình sử dụng kháng sinh cho vật nuôi không theo hướng dẫn của thú y. Kiến thức về sử dụng kháng sinh ở miền Trung và miền Nam tốt hơn nhưng tỷ lệ thực hành đạt lại thấp hơn so với miền Bắc. Cộng đồng chưa có đủ kiến thức liên quan đến việc sử dụng kháng sinh và tầm quan trọng của kháng kháng sinh. Cần tăng cường các can thiệp cung cấp kiến thức về sử dụng kháng sinh hợp lý cho cả cộng đồng.
#Kháng sinh #kháng kháng sinh #vi khuẩn kháng kháng sinh #kiến thức #thực hành
Phân tích chi phí bảo hiểm y tế tại bệnh viện tỉnh Kiên Giang trong ba năm, 2018 đến 2020
Tập 32 Số 2 - Trang 67-74 - 2022
Phạm Thị Hiền, Nguyễn Tấn Thành, Trần Quang Huy, Đỗ Quang Tuyển, Trương Việt Dũng
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mô tả mức chi bảo hiểm y tế trung bình một trường hợp và trungbình một ngày điều trị theo các nhóm bảo hiểm y tế (BHYT), phân tích cơ cấu và biến động cơ cấu các khoản chi qua 3 năm: 2018, 2019, 2020. Nghiên cứu hồi cứu số liệu sẵn có với tổng 156.944 lượt bệnhnhân điều trị nội trú đa tuyến tại Bệnh viện tỉnh Kiên Giang. Kết quả cho thấy, người bệnh phải thanh toáncho một đợt điều trị rất thấp, dao động từ 735 ngàn đến 1175 ngàn đồng. Mức chi trung bình cho một ngày điều trị sau khi đã hiệu chỉnh theo nhóm tuổi, giới và nhóm khoa qua các năm dao động từ 641,4 ngàn đến 1,533 ngàn đồng/ngày. Các nhóm BHYT đều có xu hướng tăng chi qua các năm (ngoại trừ năm 2020 nhóm 2 do tổ chức bảo biểm xã hội đóng mức chi tăng khá nhiều). Nhóm chi chiếm tỷ trọng thấp nhất là các khoản tiền khám bệnh, tiền vận chuyển và tiền chẩn đoán hình ảnh. Khoản chi nhiều nhất là tiền thuốc chiếm tỷ lệ từ 25% đến 28,0% so với tổng chi. Khoản chi nhiều thứ 2 là tiền giường chiếm tỷ lệ từ 17,9% đến 18,4% so với tổng chi. Nghiên cứu cho thấy mức chi BHYT đang tăng dần qua các năm, trong đó chi cho thuốc, vật tư y tế và tiền giường chiếm tỷ trọng cao nhất.
#Chi phí bảo hiểm y tế #phân tích hiệp biến (ANCOVA) #Kiên Giang
Thực trạng sử dụng công trình vệ sinh phúc lợi tại nơi làm việc ở một số làng nghề miền Bắc Việt Nam năm 2018
Tập 30 Số 4 Phụ bản - Trang 163-169 - 2020
Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Thanh Thảo, Phạm Thị Quân, Nguyễn Quốc Doanh, Phan Thị Mai Hương, Tạ Thị Kim Nhung, Khương Văn Duy, Trần Như Nguyên, Lương Mai Anh, Phạm Xuân Thành, Nguyễn Thị Thu Huyền
Việt Nam là quốc gia phát triển mạnh mẽ nhiều các làng nghề truyền thống nổi tiếng. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm mục tiêu mô tả thực trạng sử dụng công trình vệ sinh phúc lợi (CTVSPL) tại nơi làm việc ở một số làng nghề miền Bắc Việt Nam năm 2018. Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến hành trên 1007 người lao động (NLĐ) trực tiếp làm trong các cơ sở sản xuất của các làng nghề. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ các cơ sở sản xuất có các CTVSPL khá cao; hố tiểu 92%, hố tiêu 95,2%, buồng tắm 84%, vòi nước rửa tay 92,9%, nước uống 98,8%. Hố tiêu tự hoại, buồng tắm cá nhân, vòi nước máy không có bồn rửa chiếm tỷ lệ 93,4%, 78,3% và 64%. Tỷ lệ NLĐ sử dụng thường xuyên các CTVSPL có tại nơi làm việc như hố tiêu, hố tiểu, buồng tắm, vòi nước rửa tay và nước uống cao từ 62,5% đến 91,7%.
#Công trình vệ sinh phúc lợi #làng nghề #miền Bắc