Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
Vữa phủ chống cháy siêu nhẹ cho kết cấu thép
Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng - Số 1 - Trang - 2021
Lưu Hoàng Sơn, Trần Thị Minh Hải, Nguyễn Thị Kim
Trong lĩnh vực an toàn cháy, mỗi vật liệu đều phải được xem xét và đánh giá về tính nguy hiểm cháy, là tập hợp của các đặc tính kỹ thuật về cháy như: tính cháy, tính bắt cháy, tính lan truyền lửa trên bề mặt, mức sinh nhiệt lượng khi cháy, khả năng tạo khói và chất độc,… Để đánh giá mức nguy hiểm cháy của một vật liệu hoặc một tổ hợp các vật liệu, phải dựa vào các kết quả thử nghiệm về ứng xử với lửa của chúng. Vật liệu có các đặc tính nêu trên ở một mức độ giới hạn theo quy định (tùy theo từng hệ thống phân loại của từng quốc gia hoặc vùng lãnh thổ) có thể được xem là vật liệu chống cháy. Sản phẩm nghiên cứu của đề tài là vữa chống cháy có tỷ trọng siêu nhẹ, cách nhiệt, chống cháy, không phát sinh khói và chất độc trong thời gian thử nghiệm. Kết quả thử nghiệm cho thấy, chỉ với chiều dày lớp vữa phủ 30 mm, cho khả năng chống cháy đạt hơn 180 phút, đảm bảo bảo vệ kết cấu thép và con người khi có hỏa hoạn xảy ra.
#vữa chống cháy #vật liệu chống cháy
Xây dựng quy trình thực hiện dự án Scan to BIM và ứng dụng vào case study
Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng - - 2023
Nguyễn Anh Thư, Trần Đức Học, Vũ Xuân Lâm
Bên cạnh ứng dụng BIM thì Scan to BIM cũng mang lại nhiều lợi ích trong lĩnh vực xây dựng. Các quy trình thực hiện Scan to BIM mà các nghiên cứu hiện nay đang hướng tới hiện đang còn ở mức tổng quan hoặc đi sâu vào quy trình sử dụng thiết bị, phần mềm mà chưa đề cập tới khái niệm LOA (level of accuracy – mức độ chính xác), chưa có một quy trình tổng quát cho quá trình thực hiện dự án Scan to BIM. Dự án ở đây đi từ các công tác chuẩn bị, lên kế hoạch, thực hiện tại hiện trường và xử lý dữ liệu, bàn giao cho khách hàng, chủ đầu tư. Qua đó, giúp người đọc hình dung được những khái niệm cơ bản cần phải nắm khi thực hiện một dự án Scan to BIM, cũng như làm tài liệu giúp các tổ chức, doanh nghiệp có thể tham khảo nếu muốn phát triển hay áp dụng Scan to BIM. Từ đó, nghiên cứu ứng dụng thực tiễn quy trình đề xuất cho một dự án nhằm đánh giá tính khả thi và hiệu quả của quy trình.
#Quy trình thực hiện dự án Scan to BIM #Scan to BIM #BIM
Phân tích xác suất nứt do nhiệt của kết cấu trụ cầu trong quá trình nhiệt thủy hóa xi măng bằng mô phỏng số
Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng - - 2023
Vũ Chí Công, Lê Văn Minh, Hồ Ngọc Khoa
Bài báo trình bày kết quả phân tích xác suất nứt do nhiệt nhiệt trong quá trình nhiệt thủy hóa xi măng được xác định bằng mô phỏng số của kết cấu BTCT khối lớn dạng trụ cầu. Nội dung nghiên cứu có đề cập tới mức độ ảnh hưởng của một số yếu tố tới xác suất nứt do nhiệt này theo phương pháp trên. Kết quả phân tích có thể được sử dụng để dự đoán xác suất nứt do nhiệt phục vụ thiết kế phương án thi công và bảo dưỡng bê tông phù hợp nhằm kiểm soát hiện tượng nứt của kết cấu bê tông cốt thép dạng trụ cầu.
#Bê tông cốt thép khối lớn #Nhiệt thủy hóa xi măng #Phương pháp mô phỏng số #Xác suất nứt do nhiệt
Mô phỏng khả năng giảm sóng của kè cọc ly tâm bằng mô hình Flow-3D
Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng - - 2023
Duy Linh Dư, Đại Bằng Phạm, Văn Duy Đinh, Tấn Ngọc Thân Cao, Văn Tỷ Trần, Gia Bảo Trần, Hiếu Đức Trần
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mô tả khả năng giảm sóng của kè cọc ly tâm bằng mô hình thủy lực Flow-3D. Các số liệu đầu vào của mô hình như kết cấu kè, địa hình đáy, mực nước và số liệu gió được thu thập từ hồ sơ thiết kế kè và nguồn số liệu gió được cung cấp miễn phí từ Vortex FDC. Số liệu sóng thực đo cũng được sử dụng để so sánh với kết quả mô phỏng. Kết quả mô phỏng cho thấy chiều cao sóng lớn nhất trước kè đạt 0,69 m và chiều cao sóng lớn nhất sau kè đạt 0,24 m. Hiệu quả giảm sóng của kè cọc ly tâm mô phỏng bằng Flow-3D đạt 65% đối với chiều cao sóng lớn nhất (Hmax) và 69% cho chiều cao sóng có nghĩa (Hs); trong khi đó, hiệu quả giảm sóng tính toán từ số liệu sóng thực đo là 86% cho chiều cao sóng lớn nhất (Hmax) và 82% cho chiều cao sóng có nghĩa (Hs).
#Flow-3D #Giảm sóng #Kè ly tâm #Mô hình số #Chiều cao sóng
Nghiên cứu thực nghiệm khả năng chịu tải trọng xuyên của bê tông tính năng siêu cao
Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng - - 2022
Phạm Mạnh Hào, Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Văn Thao, Thân Quang Vũ, Nguyễn Công Thắng, Lương Như Hải, Nguyễn Hùng Phong, Ngô Ngọc Thuỷ
Trong nghiên cứu này sẽ trình bày kết quả thực nghiệm khả năng chịu tải trọng xuyên, phá của đạn 12,7 mm lên các mẫu bê tông tính năng siêu cao (UHPC) và các mẫu bê tông thường M30. Quá trình bắn thử nghiệm nhằm đánh giá mức độ xuyên và phá trên các tấm mẫu thử bằng bê tông tính năng siêu cao và bê tông thường có kích thước chiều rộng 500 mm, chiều dài 500 mm với chiều dày là 100 mm và 200 mm. Kết quả thực nghiệm đã xác định được các thông số về chiều sâu xuyên của đạn, kích thước vùng phá hủy, vùng chấn sụp của các tấm mẫu thử nghiệm, cũng như ứng xử cơ học của chúng dưới tác dụng của tải trọng xuyên của đạn và so sánh giữa bê tông tính năng siêu cao và bê tông thường.
#Bê tông tính năng siêu cao #Tải trọng xuyên #Chiều sâu xuyên #Vùng phá huỷ #Vùng chấn sụp #Ứng xử cơ học
Nghiên cứu thực nghiệm đánh giá khả năng nứt ở độ tuổi ban đầu của bê tông thường và bê tông cường độ cao bằng phương pháp vòng kiềm chế
Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng - - 2023
Ngọc Thành Nguyễn
Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá khả năng nứt ở độ tuổi ban đầu của bê tông thường (NC) và bê tông cường độ cao (HC) bằng phương pháp vòng kiềm chế, nhằm cung cấp cho việc dự đoán khả năng ứng xử của từng loại bê tông để từ đó đưa ra những biện pháp thi công phù hợp cho công trình xây dựng. Hai loại bê tông được khảo sát bao gồm NC với mác thiết kế M350 và HC với mác thiết kế M600. Kết quả thực nghiệm đã chỉ ra rằng khi so với NC, HC có tốc độ co ngót nhanh hơn trong 24 giờ đầu, và tăng rất chậm trong những ngày sau đó. Vết nứt xuất hiện trong HC thường xảy ra rất sớm khi so sánh với NC. Khả năng nứt của bê tông có thể được đánh giá dựa trên thời điểm nứt hoặc tốc độ phát triển ứng suất kéo theo thời gian của bê tông, không phụ thuộc vào loại bê tông. Kết luận rằng, việc dự đoán khả năng nứt trong mỗi loại bê tông thông qua thí nghiệm vòng kiềm chế mang tính khả thi để từ đó có thể đưa ra nhiều biện pháp thi công phù hợp khi áp dụng từng loại bê tông trong xây dựng.
#Cường độ chịu nén #Cường độ chịu kéo #Mô đun đàn hồi #Mức ứng suất kéo #Phương pháp vòng kiềm chế
Đánh giá tác động của đê bao tỉnh An Giang đến chế độ dòng chảy dòng chính sông Mê Kông tại Đồng bằng sông Cửu Long
Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng - - 2021
Tô Hoài Phong, Huỳnh Vương Thu Minh, Lê Hải Trí, Lê Tuấn Tú, Trần Văn Tỷ
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá tác động của hệ thống đê bao kiểm soát lũ (KSL) ở tỉnh An Giang đến chế độ dòng chảy sông chính. Phương pháp thống kê diễn biến phát triển hệ thống đê bao KSLtriệt để được sử dụng nhằm đánh giá ảnh hưởng của đê bao đến thay đổi chế độ dòng chảy thông qua chỉ số biến đổi thủy văn (IHA– Indicators of Hydrologic Alteration) giai đoạn 1 -  xây dựng (1997-2010) và giai đoạn 2 - sau khi hệ thống đê bao được xây dựng tương đối hoàn chỉnh (2011-2019). Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉnh An Giang đã tăng nhanh diện tích đê bao KSL triệt để trong hai giai đoạn 1997-2004 và 2007-2010. Đến năm 2011 diện tích đê bao chiếm 69% diện tích tự nhiên toàn tỉnh (đê bao KSL triệt để chiếm 54% và đê bao tháng tám chiếm 15%). Kết quả đánh giá sự thay đổi dòng chảy (lưu lượng) cho thấy tại cả hai trạm Châu Đốc và Tân Châu giai đoạn 1 và 2 đều ở mức cao (trên 67%); tại Vàm Nao giai đoạn 1 và 2 lần lượt là 49,8% và 60,7%. Nhìn chung, giai đoạn xây dựng hệ thống đê bao (1997-2010), trạm Châu Đốc chịu tác động lớn nhất (71,2%), tiếp theo sau là Tân Châu (68,2%) và Vàm Nao thay đổi ít nhất (49,8%). Tuy nhiên, khi xem xét giai đoạn 2 (2011-2019) sau khi hệ thống đê bao tương đối hoàn chỉnh thì sự thay đổi chế độ dòng chảy tại trạm Tân Châu và Vàm Nao vẫn tăng đáng kể, lần lượt là 76,6% và 60,7%. Trong năm nhóm xem xét thì nhóm 5 (Tỷ lệ và tần suất của sự biến đổi dòng chảy) có sự thay đổi lớn nhất tại cả ba trạm. Trong đó, chỉ số 31 (sự tăng dòng chảy) thay đổi ở mức rất cao tại Châu Đốc và Tân Châu. Trong khi đó, chỉ số 32 và 33 tại Trạm Vàm Nao có sự thay đổi đáng kể cả hai giai đoạn xem xét. Sự thay đổi các chỉ số thủy văn ở trạm Tân Châu và Châu Đốc có thể là do sự thay đổi của dòng chảy từ thượng nguồn sông Mê Kông. Do vậy, cần xem xét toàn diện các nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi chế độ dòng chảy này.
#Hệ thống đê bao #chế độ dòng chảy #dòng chính sông Mekong #tỉnh An Giang #chỉ số thay đổi dòng chảy (IHA)
Quan trắc diễn biến đường bờ Cù Lao Dung bằng công nghệ phân tích ảnh viễn thám
Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng - - 2023
Đinh Văn Duy, Huỳnh Đăng Khoa
Mục tiêu của nghiên cứu này là quan trắc diễn biến đường bờ sông và bờ biển của Cù Lao Dung bằng công nghệ phân tích ảnh viễn thám giai đoạn 2008-2022. Ảnh đa phổ Landsat được sử dụng để phân loại và chiết xuất đường bờ. Các kết quả phân tích cho thấy từ năm 2008 đến 2022, tổng diện tích đường bờ biển tăng 309 ha, đường bờ sông giảm 78 ha, tại vị trí xói lở nghiêm trọng nhất có đường bờ sông lùi sâu 61 m vào đất liền và tại vị trí có tốc độ bồi tụ lớn nhất, đường bờ biển đã được mở rộng thêm khoảng 650 m.
Phát triển một mô hình vật liệu đất có thể mô phỏng ứng xử của đất dưới tải một chiều
Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng - Tập 13 Số 01 - Trang Trang 88 - Trang 94 - 2023
Huỳnh Nhật Minh
Phát triển mô hình vật liệu đất ngày càng trở nên phổ biến hiện nay, bởi đất là một vật liệu dạng hạt có ứng xử khác nhau với mỗi điều kiện tải khác nhau. Đã có nhiều nghiên cứu về mô hình vật liệu đất hiện nay. Tuy nhiên, hầu hết các mô hình vật liệu đất này có những nhược điểm đặc thù như là các mô hình đất này chỉ mô phỏng tốt một số trường hợp tải nhất định hoặc những thông số đầu vào của mô hình đó phải bị điều chỉnh thì kết quả mới gần với kết quả thí nghiệm của mẫu đất. Trong nghiên cứu này, một mô hình vật liệu đất được phát triển dựa trên một mô hình vật liệu đất hiệu quả và phổ biến hiện nay, và chú trọng vào việc khắc phục tình trạng hệ số Poisson bị điều chỉnh khác với các thí nghiệm thực tế. Mô hình cải tiến này sẽ dùng hệ số Poisson thực tế của mẫu đất để làm giá trị cho hệ số Poisson nhập vào mô hình vật liệu và phương trình về độ tăng cứng và phương trình về độ giãn nở sẽ được điều chỉnh. Thông qua việc so sánh kết quả mô phỏng của hai mô hình gốc và mô hình cải tiến với kết quả thí nghiệm, tác giả quan sát được mô hình vật liệu cải tiến này có thể khắc phục tình trạng mô phỏng thái quá và tình trạng đánh giá thấp về độ trương nở cũng như độ cứng của đất trong mô hình gốc khi sử dụng đúng giá trị hệ số Poisson của đất trong thí nghiệm. Kết quả này đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển mô hình vật liệu đất, giúp các nhà nghiên cứu có thể phát triển tiếp tục mô hình vật liệu này để có thể mô phỏng được các ứng xử khác của đất.
#Mô hình vật liệu đất #Mô phỏng ứng xử đất #Nén cố kết #Tải một chiều #Kết quả thí nghiệm
Ảnh hưởng của nhiệt độ nung tới tính chất của vỏ Hàu và vỏ Ngao
Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng - - 2023
Lưu Thị Hồng, Trịnh Thị Châm, Đào Công Anh, Nguyễn Hải Long
Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ nung tới tính chất của vỏ Hàu và vỏ Ngao. Thành phần chủ yếu của vỏ Hàu, vỏ Ngao là CaCO3 và hợp chất hữu cơ là chất liên kết tạo khung CaCO3 [2,3]. Dưới tác dụng của nhiệt độ khác nhau vỏ Hàu, Ngao cháy phân hủy các chất hữu cơ và CaCO3. Kết quả nghiên cứu trong bài báo này chỉ ra rằng ở nhiệt độ ≥ 8000C vỏ Hàu và Ngao bị phân hủy CaCO3 hoàn toàn và nhiệt độ bắt đầu cháy các chất hữu cơ là 3000C.
#Vỏ Hàu #Vỏ Ngao #Nhiệt độ nung #Chất hữu cơ
Tổng số: 14   
  • 1
  • 2