Tính hợp lệ của Bảng câu hỏi hoạt động thể chất quốc tế - phiên bản ngắn (IPAQ-SF): Một đánh giá hệ thống Dịch bởi AI Tập 8 Số 1 - 2011
Paul H. Lee, Duncan J. Macfarlane, TH Lam, Sunita M. Stewart
Tóm tắt
Đặt vấn đề
Bảng câu hỏi hoạt động thể chất quốc tế - phiên bản ngắn (IPAQ-SF) đã được khuyến nghị là một phương pháp tiết kiệm chi phí để đánh giá hoạt động thể chất. Nhiều nghiên cứu đã tiến hành xác thực IPAQ-SF với kết quả khác nhau, nhưng không có đánh giá hệ thống nào về những nghiên cứu này được báo cáo.
Phương pháp
Các từ khóa "IPAQ", "xác thực" và "tính hợp lệ" đã được tìm kiếm trong PubMed và Scopus. Các nghiên cứu được công bố bằng tiếng Anh đã xác thực IPAQ-SF so với một thiết bị đo lường hoạt động thể chất khách quan, nước đánh dấu kép, hoặc một tiêu chuẩn thể lực khách quan đều được đưa vào.
Kết quả
Hai mươi ba nghiên cứu xác thực đã được đưa vào đánh giá này. Có nhiều biến đổi trong các phương pháp được sử dụng giữa các nghiên cứu, nhưng các kết quả chủ yếu là tương tự. Hệ số tương quan giữa tổng mức độ hoạt động thể chất đo được qua IPAQ-SF và các tiêu chuẩn khách quan dao động từ 0.09 đến 0.39; không có hệ số nào đạt tiêu chuẩn tối thiểu chấp nhận được trong tài liệu (0.50 đối với thiết bị đo lường hoạt động khách quan, 0.40 đối với các tiêu chuẩn về thể lực). Hệ số tương quan giữa các phần của IPAQ-SF cho hoạt động mạnh hoặc mức độ hoạt động vừa phải/đi bộ và một tiêu chuẩn khách quan cho thấy sự biến đổi còn lớn hơn (-0.18 đến 0.76), tuy nhiên, một số đã đạt tiêu chuẩn tối thiểu chấp nhận được. Chỉ có sáu nghiên cứu cung cấp sự so sánh giữa mức độ hoạt động thể chất được lấy từ IPAQ-SF và những mức độ thu được từ tiêu chuẩn khách quan. Trong hầu hết các nghiên cứu, IPAQ-SF đã đánh giá quá mức mức độ hoạt động thể chất từ 36 đến 173 phần trăm; một nghiên cứu đã đánh giá thấp 28 phần trăm.
Các đặc điểm trong môi trường vật lý có ảnh hưởng đến hoạt động thể chất của trẻ em? Một tổng quan tài liệu Dịch bởi AI Tập 3 - Trang 1-17 - 2006
Kirsten Krahnstoever Davison, Catherine T Lawson
Nhiều thanh thiếu niên hiện nay không tích cực tham gia các hoạt động thể chất. Sự chú ý gần đây liên kết môi trường vật lý hoặc xây dựng với hoạt động thể chất ở người lớn gợi ý việc điều tra mối quan hệ giữa môi trường xây dựng và hoạt động thể chất ở trẻ em có thể hướng dẫn các chiến lược can thiệp phù hợp. Ba mươi ba nghiên cứu định lượng đã đánh giá mối liên hệ giữa môi trường vật lý (được nhận thức hoặc đo lường khách quan) và hoạt động thể chất ở trẻ em (từ 3 đến 18 tuổi) và đáp ứng các tiêu chí lựa chọn đã được xem xét. Các phát hiện được phân loại và thảo luận theo ba chiều kích của môi trường vật lý bao gồm cơ sở hạ tầng giải trí, cơ sở hạ tầng giao thông và điều kiện địa phương. Kết quả từ các nghiên cứu khác nhau cho thấy rằng sự tham gia của trẻ em vào hoạt động thể chất có liên quan tích cực với cơ sở hạ tầng giải trí do công cộng cung cấp (truy cập vào các cơ sở giải trí và trường học) và cơ sở hạ tầng giao thông (sự hiện diện của vỉa hè và các giao lộ có kiểm soát, truy cập đến các điểm đến và phương tiện công cộng). Đồng thời, cơ sở hạ tầng giao thông (số lượng đường cần băng qua và mật độ/tốc độ giao thông) và điều kiện địa phương (tội phạm, sự thiếu thốn trong khu vực) có liên quan tiêu cực đến sự tham gia hoạt động thể chất của trẻ em. Các kết quả làm nổi bật mối liên hệ giữa môi trường vật lý và hoạt động thể chất của trẻ em. Nghiên cứu bổ sung sử dụng phương pháp xuyên ngành và đánh giá các biến điều chỉnh và trung gian là cần thiết để thông báo một cách hợp lý các nỗ lực chính sách.
#môi trường vật lý #hoạt động thể chất #trẻ em #nghiên cứu định lượng #can thiệp chính sách
Objectively measured physical activity and sedentary time in youth: the International children’s accelerometry database (ICAD) Tập 12 Số 1 - 2015
Ashley R Cooper, Anna Goodman, Angie S Page, Lauren B. Sherar, Dale W. Esliger, Esther M. F. van Sluijs, Lars Bo Andersen, Sigmund Alfred Anderssen, Greet Cardon, Rachel Davey, Karsten Fröberg, Pedro Curi Hallal, Kathleen F. Janz, Katarzyna Kordas, Susi Kreimler, Russell R. Pate, Jardena J. Puder, John J. Reilly, Jo Salmon, Luís B. Sardinha, Anna Timperio, Ulf Ekelund