Journal of Applied Ecology

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
Suy thoái môi trường sống và sự giảm sút của loài ngọc trai nước ngọt Margaritifera margaritifera: ảnh hưởng của độ đục và lắng đọng trên con trai và ký chủ của nó Dịch bởi AI
Journal of Applied Ecology - Tập 47 Số 4 - Trang 759-768 - 2010
Martin Österling, Björn Arvidsson, Larry Greenberg
Tóm tắt

1. Suy thoái môi trường sống là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự tuyệt chủng của các loài. Đối với các tương tác giữa ký sinh trùng và vật chủ, sự giảm sút của ký sinh trùng có thể không chỉ liên quan đến khả năng chịu đựng của ký sinh trùng với sự suy thoái môi trường sống mà còn gián tiếp thông qua khả năng chịu đựng của vật chủ đối với cùng một rối loạn đó.

2. Mục tiêu của chúng tôi là khám phá nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm quần thể của ngọc trai nước ngọt Margaritifera margaritifera bằng cách liên kết cấu trúc tuổi, mật độ và sự phát triển của các con trai với độ đục, tỷ lệ lắng đọng và mật độ của vật chủ của trai, cá hồi Salmo trutta, trong 26 con suối ở Thụy Điển.

3. Một phân tích về cấu trúc tuổi của chín quần thể trai cho thấy độ tuổi tối đa khác nhau tới 60 năm, với năm quần thể có tỷ lệ thấp các con trai vị thành niên. Mật độ trai trưởng thành cao hơn ở các vị trí có trai vị thành niên so với các vị trí không có trai vị thành niên.

4. Sự phát triển của trai trưởng thành trong 10 năm qua thấp hơn ở năm con suối không có sự tái sinh gần đây so với bốn con suối có sự tái sinh gần đây, cho thấy rằng một số yếu tố môi trường có thể đang ảnh hưởng tiêu cực đến những quần thể này.

5. Một so sánh giữa 24 quần thể cho thấy rằng độ đục và lắng đọng có thể là nguyên nhân dẫn đến sự thất bại trong việc tái sinh ở 58% các quần thể. Độ tuổi của con trai trẻ nhất có mối quan hệ tích cực với độ đục và lắng đọng, trong khi mật độ trai vị thành niên có mối quan hệ tiêu cực với độ đục và lắng đọng. Ngược lại, mật độ cá hồi không liên quan đến việc tái sinh của trai hoặc lắng đọng, nhưng có mối quan hệ tích cực với độ đục ở tất cả các con suối, cả có và không có sự tái sinh trai gần đây.

6.Tổng hợp và ứng dụng. Sự thất bại trong việc tái sinh của M. margaritifera dường như liên quan đến sự nhạy cảm của chính nó đối với độ đục và lắng đọng hơn là phản ứng của vật chủ đối với loại suy thoái môi trường sống này. Các kết quả từ nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các nhà quản lý có thể đánh giá tiềm năng tồn tại của các quần thể trai bằng cách đo độ đục của dòng suối. Các hoạt động phục hồi để cải thiện môi trường sống của trai nên tập trung vào việc giảm bớt vận chuyển vật chất mịn vào các con suối.

Đánh giá việc phân định vùng giống hạt bằng dữ liệu thuộc tính hình thái và genom quần thể trên cây bạch dương đen Alnus glutinosa Dịch bởi AI
Journal of Applied Ecology - Tập 51 Số 5 - Trang 1218-1227 - 2014
Hanne De Kort, Joachim Mergeay, Kristine Vander Mijnsbrugge, Guillaume Decocq, Simona Maccherini, Hans Henrik Bruun, Olivier Honnay, Katrien Vandepitte
Tóm tắt

Việc phân định các vùng giống hạt hoặc khu vực nguồn gốc để bảo tồn sự thích nghi địa phương là một thực tiễn phổ biến trong lâm nghiệp và phục hồi sinh thái, vì các cây bản địa thích ứng thường có mức độ năng suất và khả năng chống chịu tương đối cao. Các thử nghiệm nguồn gốc thường định lượng mức độ khác biệt về hình thái giữa các cá thể và quần thể được nuôi dưỡng dưới điều kiện chung, điều này tốn thời gian và có thể bị ảnh hưởng bởi độ dẻo của hình thái và hiệu ứng mẹ.

Chúng tôi đề xuất sử dụng genom quần thể, việc sàng lọc genom của từng cá thể để tìm kiếm dấu hiệu di truyền của sự thích nghi, như một chiến lược nhanh chóng và đáng tin cậy để đánh giá việc phân định vùng giống hạt. Để minh họa giá trị của phương pháp này, chúng tôi đã định lượng mức độ thích nghi di truyền trong và giữa các nguồn gốc bạch dương đen Alnus glutinosa của Bỉ và so sánh kết quả với các thử nghiệm nguồn gốc truyền thống. Các khu vực tham chiếu xa xôi của Châu Âu đã được đưa vào để xác thực các phương pháp, vì sự khác biệt môi trường lớn hơn trên quy mô Châu Âu dự kiến sẽ tạo ra phản ứng thích nghi lớn hơn.

Các nguồn gốc địa phương không có hiệu suất tốt hơn các nguồn gốc nước ngoài ở quy mô vùng giống hạt của Bỉ, trái ngược với các so sánh với các khu vực Châu Âu xa xôi. Một hiệu ứng địa điểm có ý nghĩa cho thấy rằng các phản ứng dẻo thay vì thích nghi địa phương giải thích sự khác biệt hình thái giữa các vùng giống hạt. Vườn chung cho thấy ít bằng chứng về sự thích nghi cho tất cả các thuộc tính đo lường, cả giữa các vùng giống hạt và các khu vực xa xôi.

Số lượng và cường độ của các cá thể di truyền nổi bật không lớn hơn một cách có ý nghĩa giữa các vùng giống hạt của Bỉ so với bên trong các vùng giống hạt này, nhưng lớn hơn một cách có ý nghĩa giữa các vùng giống hạt của Bỉ và các vùng tham chiếu Châu Âu xa xôi.

Tổng hợp và ứng dụng. Việc thiếu sự khác biệt thích nghi giữa các vùng giống hạt của Bỉ hỗ trợ cho việc mở rộng các khu vực nguồn gốc hiện tại thành các vùng giống hạt lớn hơn. Kết quả cũng cho thấy rằng genom quần thể có thể là một nguồn chính xác và hiệu quả về thời gian để hỗ trợ các quyết định về nguồn giống. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức về các lợi ích tiềm năng của phương pháp mới này đối với các nhà hoạch định chính sách, lâm nghiệp và những người thực hành phục hồi sinh thái.

Giám sát môi trường: quy mô và tốc độ thực hiện khác nhau tùy thuộc vào mức độ tham gia của người dân Dịch bởi AI
Journal of Applied Ecology - Tập 47 Số 6 - Trang 1166-1168 - 2010
Finn Danielsen, Neil D. Burgess, P. Jensen, Karin Pirhofer‐Walzl
Tóm tắt

1. Các giải pháp cho cuộc khủng hoảng môi trường toàn cầu cần có kiến thức khoa học và phản ứng qui mô khác nhau về không gian và cấp độ tổ chức xã hội; tuy nhiên, việc hiểu cách chuyển đổi kiến thức môi trường thành công tác ra quyết định và hành động vẫn còn hạn chế.

2. Chúng tôi đã xem xét 104 chương trình giám sát môi trường đã công bố để đánh giá liệu việc tham gia vào việc thu thập và phân tích dữ liệu có ảnh hưởng đến tốc độ và quy mô ra quyết định và hành động hay không.

3. Kết quả của chúng tôi cho thấy rằng việc giám sát do các nhà khoa học thực hiện cung cấp thông tin cho các quyết định trong các khu vực, quốc gia và công ước quốc tế. Tuy nhiên, các quyết định thường mất từ 3 đến 9 năm để được thực hiện.

4. Chúng tôi cũng chỉ ra rằng giám sát do các nhà khoa học thực hiện có ít ảnh hưởng ở quy mô làng, nơi mà nhiều quyết định liên quan đến quản lý tài nguyên thiên nhiên được đưa ra.

5. Tại quy mô làng, các chương trình giám sát có sự tham gia của người dân địa phương, và liên quan đến việc sử dụng tài nguyên ở cấp độ làng, hiệu quả hơn nhiều trong việc ảnh hưởng đến quyết định; các quyết định này thường mất từ 0 đến 1 năm để được thực hiện.

6.Tổng hợp và ứng dụng. Việc tham gia của các bên liên quan địa phương trong giám sát nâng cao phản ứng quản lý ở các quy mô không gian địa phương, và tăng tốc độ ra quyết định nhằm giải quyết những thách thức môi trường ở các cấp độ quản lý tài nguyên hoạt động.

TỔNG QUAN: Một cái nhìn tổng quan về các rủi ro môi trường do thuốc trừ sâu neonicotinoid gây ra Dịch bởi AI
Journal of Applied Ecology - Tập 50 Số 4 - Trang 977-987 - 2013
Dave Goulson
Tóm tắt

Các loại thuốc trừ sâu neonicotinoid hiện nay là loại thuốc trừ sâu được sử dụng phổ biến nhất trên toàn thế giới. Chúng có tác dụng hệ thống, đi qua các mô thực vật và bảo vệ tất cả các phần của cây trồng, và thường được áp dụng dưới dạng hạt giống được xử lý. Là những chất độc thần kinh có độ độc cao đối với hầu hết các loài động vật không xương sống, chúng cung cấp khả năng kiểm soát dịch hại hiệu quả và có nhiều ứng dụng trong nông nghiệp canh tác và làm vườn.

Tuy nhiên, việc sử dụng phòng ngừa thuốc trừ sâu phổ rộng lại đi ngược lại với những nguyên tắc đã được thiết lập từ lâu của quản lý dịch hại tích hợp (IPM), dẫn đến những lo ngại về môi trường.

Gần đây, người ta phát hiện ra rằng các loại neonicotinoid có thể tồn tại và tích tụ trong đất. Chúng hòa tan trong nước và dễ bị rửa trôi vào các nguồn nước. Vì tính hệ thống của chúng, chúng có mặt trong mật hoa và phấn hoa của các cây trồng được xử lý. Mức độ đã được báo cáo trong đất, nguồn nước, cây cối ở rìa ruộng và tài nguyên hoa có sự chồng chéo lớn với nồng độ đủ để kiểm soát dịch hại trong cây trồng, và thường vượt quá LC50 (nồng độ gây chết 50% cá thể) cho các sinh vật có lợi. Nồng độ trong mật hoa và phấn hoa của cây trồng đủ để ảnh hưởng đáng kể đến sự sinh sản của các quần thể ong bumblebee.

Mặc dù động vật có xương sống ít nhạy cảm hơn so với động vật không xương sống, việc tiêu thụ một số lượng nhỏ hạt giống đã qua xử lý cũng là nguyên nhân gây tử vong trực tiếp ở các loài chim và động vật có vú.

Tổng hợp và ứng dụng. Vẫn tồn tại nhiều khoảng trống kiến thức lớn, nhưng việc sử dụng neonicotinoid hiện tại có khả năng đang tác động đến một loạt các nhóm không phải mục tiêu bao gồm các loài thụ phấn và động vật không xương sống trong đất và nước, do đó đe dọa một loạt các dịch vụ hệ sinh thái.

When road‐kill hotspots do not indicate the best sites for road‐kill mitigation
Journal of Applied Ecology - Tập 54 Số 5 - Trang 1544-1551 - 2017
Fernanda Zimmermann Teixeira, Andreas Kindel, Sandra Maria Hartz, Scott Mitchell, Lenore Fahrig
Summary

The effectiveness of measures installed to mitigate wildlife road‐kill depends on their placement along the road. Road‐kill hotspots are frequently used to identify priority locations for mitigation measures. However, in situations where previous road mortality has reduced population size, road‐kill hotspots may not indicate the best sites for mitigation.

The purpose of this study was to identify circumstances in which road‐kill hotspots are not appropriate indicators for the selection of the best road‐kill mitigation sites. We predicted that: (i) road‐kill hotspots can move in time from high‐traffic road segments to low‐traffic segments, due to population depression near the high‐traffic segment caused by road mortality; (ii) this shift will occur earlier for more mobile species because they should interact more often with the road; (iii) this shift can occur even if the low‐traffic segment runs through lower quality habitat than the high‐traffic segment. To test these predictions, we simulated population size and road‐kill over time for two populations, one exposed to a road segment with high traffic and the other to a road segment with low traffic.

Our simulation results supported Predictions 1 and 3, while Prediction 2 was not supported.

Synthesis and applications. Our results indicate that, for new roads, road‐kill hotspots can be useful to indicate appropriate sites for mitigation. On older roads, road‐kill hotspots may not indicate the best sites for road mitigation due to population depression caused by road mortality. Direct measures of the road impact on the population, such as per capita mortality, are better indicators of appropriate mitigation sites than road‐kill hotspots.

Effect of Nitrogen Supply on Nutrient Uptake in Corsican Pine
Journal of Applied Ecology - Tập 13 Số 3 - Trang 955 - 1976
Hugh G. Miller, J. David Miller, Olive J. L. Pauline
Effects of agricultural management practices on earthworm populations and crop yield: validation and application of a mechanistic modelling approach
Journal of Applied Ecology - Tập 52 Số 5 - Trang 1334-1342 - 2015
Alice S. A. Johnston, Richard M. Sibly, Mark E. Hodson, Tania Alvarez, Pernille Thorbek
Summary

There is little consensus on how agriculture will meet future food demands sustainably. Soils and their biota play a crucial role by mediating ecosystem services that support agricultural productivity. However, a multitude of site‐specific environmental factors and management practices interact to affect the ability of soil biota to perform vital functions, confounding the interpretation of results from experimental approaches. Insights can be gained through models, which integrate the physiological, biological and ecological mechanisms underpinning soil functions.

We present a powerful modelling approach for predicting how agricultural management practices (pesticide applications and tillage) affect soil functioning through earthworm populations. By combining energy budgets and individual‐based simulation models, and integrating key behavioural and ecological drivers, we accurately predict population responses to pesticide applications in different climatic conditions.

We use the model to analyse the ecological consequences of different weed management practices. Our results demonstrate that an important link between agricultural management (herbicide applications and zero, reduced and conventional tillage) and earthworms is the maintenance of soil organic matter (SOM).

We show how zero and reduced tillage practices can increase crop yields while preserving natural ecosystem functions. This demonstrates how management practices which aim to sustain agricultural productivity should account for their effects on earthworm populations, as their proliferation stimulates agricultural productivity.

Synthesis and applications. Our results indicate that conventional tillage practices have longer term effects on soil biota than pesticide control, if the pesticide has a short dissipation time. The risk of earthworm populations becoming exposed to toxic pesticides will be reduced under dry soil conditions. Similarly, an increase in soil organic matter could increase the recovery rate of earthworm populations. However, effects are not necessarily additive and the impact of different management practices on earthworms depends on their timing and the prevailing environmental conditions. Our model can be used to determine which combinations of crop management practices and climatic conditions pose least overall risk to earthworm populations. Linking our model mechanistically to crop yield models would aid the optimization of crop management systems by exploring the trade‐off between different ecosystem services.

The Reconstruction of Ecosystems: Presidential Address to the British Ecological Society, December 1982
Journal of Applied Ecology - Tập 20 Số 1 - Trang 1 - 1983
Zengwen Liu, Duan Erjun, Kaiwen Pan, Liping Zhang, Hongxia Du
A Predictive Model of Rainfall Interception in Forests. II. Generalization of the Model and Comparison with Observations in Some Coniferous and Hardwood Stands
Journal of Applied Ecology - Tập 12 Số 1 - Trang 367 - 1975
Allison Rutter, A. J. Morton, Paul Robins
Production of Branches and Foliage by Young trees of Pinus contorta and Picea sitchensis: Provenance Differences and Their Simulation
Journal of Applied Ecology - Tập 11 Số 3 - Trang 1091 - 1974
M. G. R. Cannell
Tổng số: 204   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10