Giới thiệu:
Ứ dịch ổ bụng là hệ quả hoặc sự kết hợp của nhiều bệnh lý nền khác nhau. Phẫu thuật nội soi kết hợp sinh thiết màng bụng là công cụ để chẩn đoán nhanh chóng và chính xác.
Phương pháp:
Chúng tôi đã xác định hồi cứu bệnh nhân không thể chẩn đoán qua khám lâm sàng, xét nghiệm phòng thí nghiệm và các xét nghiệm hình ảnh.
Kết quả:
Tổng cộng có 103 bệnh nhân (55 nam và 48 nữ) đã được lựa chọn. Độ tuổi trung vị của nhóm nghiên cứu là 54 tuổi (phạm vi 38–64 tuổi). Các triệu chứng lâm sàng điển hình bao gồm sốt (58,2%), đau bụng (56,3%) và rối loạn tiêu hóa (62,1%). Tỷ lệ sốt và rối loạn tiêu hóa cao hơn ở nhóm bệnh nhân lao màng bụng (TB) so với nhóm ung thư di căn [(62,1% so với 12,5%, P=0.009) và (66,3% so với 12,5%, P=0.004)]. Đau bụng phổ biến hơn ở nhóm ung thư di căn so với các nhóm khác (100% so với 55,8%, P=0.020). Bệnh nhân ở nhóm TB và viêm mãn tính có số lượng tế bào hồng cầu và albumin trong máu thấp hơn (41 so với 42, P=0.039) so với nhóm ung thư di căn, tương ứng. Tỷ lệ độ dày thành ruột trên siêu âm và độ dày màng bụng trên chụp CT cao hơn ở nhóm ung thư so với nhóm lành tính (87,5% so với 7,4%, P=0.000) (75% so với 23,2%, P=0.005), tương ứng. Không có sự khác biệt về thể tích dịch màng bụng giữa hai nhóm (390 so với 340, P=0.058). Kết quả bệnh lý cho thấy 88,3%, 7,8% và 3,9% của TB màng bụng, ung thư di căn, và tổn thương viêm mãn tính, tương ứng. Thời gian nằm viện trung bình không khác biệt giữa hai nhóm (4 so với 3 ngày, P=0.051). Cả hai nhóm bệnh nhân không có biến chứng hay tử vong.