thumbnail

Wiley

 

 

 

Cơ quản chủ quản:  N/A

Lĩnh vực:

Các bài báo tiêu biểu

Elements of Cartography
- 1995
Joel L. Morrison
Effectiveness of Circuit‐Based Exercises on Gait Speed, Balance, and Functional Mobility in People Affected by Stroke: A Meta‐Analysis
Tập 10 Số 4 - Trang 398-409 - 2018
Ana Clara Ana Clara, Anderson Lúcio Souza Anderson Lúcio Souza, André Marques André Marques, Liana Barbaresco Liana Barbaresco, Leonardo Rios Leonardo Rios, Wagner Rodrigues Wagner Rodrigues
AbstractBackground

Several interventions have been proposed to rehabilitate patients with neurologic dysfunctions due to stroke. However, the effectiveness of circuit‐based exercises according to its actual definition, ie, an overall program to improve strength, stamina, balance or functioning, was not provided.

Objective

To examine the effectiveness of circuit‐based exercise in the treatment of people affected by stroke.

Methods

A search through PubMed, Embase, Cochrane Library, and Physiotherapy Evidence Database databases was performed to identify controlled clinical trials without language or date restriction. The overall mean difference with 95% confidence interval was calculated for all outcomes. Two independent reviewers assessed the risk of bias.

Results

Eleven studies met the inclusion criteria, and 8 presented suitable data to perform a meta‐analysis. Quantitative analysis showed that circuit‐based exercise was more effective than conventional intervention on gait speed (mean difference of 0.11 m/s) and circuit‐based exercise was not significantly more effective than conventional intervention on balance and functional mobility.

Conclusion

Our results demonstrated that circuit‐based exercise presents better effects on gait when compared with conventional intervention and that its effects on balance and functional mobility were not better than conventional interventions.

Level of Evidence

I

Contemporary Business
- 2011
Louis E. Boone, David L. Kurtz
Tiêm Platelet‐Rich Plasma (PRP) Intradiskal Lưng: Một Nghiên Cứu Đối Chiếu Ngẫu Nhiên Thế Hệ, Mù Đôi Tương Lai Dịch bởi AI
Tập 8 Số 1 - Trang 1-10 - 2016
Yetsa A. Yetsa A., Alon Alon, Kwadwo Kwadwo, Julian R. Julian R., Caitlin K. Caitlin K., Elizabeth E. Elizabeth E., Joseph T. Joseph T., Jennifer L. Jennifer L., Gregory E. Gregory E.
Tóm tắtMục tiêu

Xác định xem việc tiêm duy nhất huyết tương giàu tiểu cầu tự thân (PRP) vào các đĩa đệm cột sống thoái hóa triệu chứng có cải thiện được mức độ đau và chức năng được báo cáo bởi người tham gia hay không.

Thiết kế

Nghiên cứu đối chiếu ngẫu nhiên mù đôi theo triển vọng.

Địa điểm

Thực hành vật lý trị liệu ngoại trú cho cột sống.

Người tham gia

Người lớn có đau đĩa đệm thắt lưng mãn tính (≥6 tháng), mức độ vừa đến nặng không phản ứng với điều trị bảo tồn.

Phương pháp

Các đối tượng tham gia được phân ngẫu nhiên nhận PRP tiêm vào đĩa đệm hoặc chất đối kháng sau khi thực hiện diskography kích thích. Dữ liệu về đau, chức năng thể chất và sự hài lòng của người tham gia được thu thập ở các thời điểm 1 tuần, 4 tuần, 8 tuần, 6 tháng và 1 năm. Những người tham gia trong nhóm đối chứng không cải thiện sau 8 tuần được mời lựa chọn nhận PRP và sau đó được theo dõi.

Các đo lường kết quả chính

Chỉ số đánh giá chức năng (FRI), Thang đo độ đau số (NRS) cho cơn đau, các lĩnh vực đau và chức năng thể chất của bảng khảo sát sức khỏe ngắn gọn 36 mục, và bảng hỏi kết quả của Hiệp hội Cột sống Bắc Mỹ (NASS) đã được sử dụng.

Kết quả

Bốn mươi bảy người tham gia (29 trong nhóm điều trị, 18 trong nhóm đối chứng) đã được phân tích bởi một quan sát viên độc lập với tỷ lệ theo dõi 92%. Qua 8 tuần theo dõi, đã có những cải thiện có ý nghĩa thống kê ở những người tham gia nhận PRP tiêm vào đĩa đệm về cơn đau (NRS Cơn Đau Tốt Nhất) (P = .02), chức năng (FRI) (P = .03), và sự hài lòng của bệnh nhân (Bảng hỏi Kết quả NASS) (P = .01) so với nhóm đối chứng. Không có sự kiện bất lợi nào về nhiễm trùng không gian đĩa đệm, tổn thương thần kinh, hoặc thoát vị tiến triển được báo cáo sau khi tiêm PRP.

Kết luận

Các người tham gia nhận PRP tiêm vào đĩa đệm cho thấy sự cải thiện đáng kể ở chỉ số FRI, điểm NRS Cơn Đau Tốt Nhất và điểm hài lòng của bệnh nhân NASS qua 8 tuần so với nhóm đối chứng. Những người nhận PRP duy trì những cải thiện đáng kể về điểm FRI trong ít nhất 1 năm theo dõi. Mặc dù những kết quả này đầy hứa hẹn, cần có thêm các nghiên cứu để xác định nhóm người tham gia có khả năng phản ứng tốt nhất với điều trị sinh học tiêm vào đĩa đệm và các đặc tính tế bào lý tưởng của chất tiêm PRP vào đĩa đệm.

Beach Management
- 1996
Eric C.F. Bird