VACOP-B so với VACOP-B cộng với ghép tủy xương tự thân cho bệnh lympho không Hodgkin di căn giai đoạn muộn: kết quả của một thử nghiệm ngẫu nhiên triển vọng bởi Nhóm Nghiên cứu Hợp tác về Lympho Không Hodgkin.
Tóm tắt
Mục tiêu của nghiên cứu ngẫu nhiên đa trung tâm này là so sánh liệu pháp thông thường với liệu pháp thông thường kết hợp với liệu pháp liều cao (HDT) và ghép tủy xương tự thân (ABMT) như điều trị tuyến đầu cho bệnh lympho không Hodgkin (NHL) có tiên lượng kém.
Giữa tháng 10 năm 1991 và tháng 6 năm 1995, 124 bệnh nhân, tuổi từ 15 đến 60, với NHL lan tỏa mức độ từ trung bình đến cao (tiêu chí của Working Formulation), giai đoạn II khối lớn (>= 10 cm), III hoặc IV đã được tuyển chọn. Sáu mươi mốt bệnh nhân được phân ngẫu nhiên nhận etoposide, doxorubicin, cyclophosphamide, vincristine, prednisone và bleomycin (VACOP-B) trong 12 tuần và cisplatin, cytarabine, và dexamethasone (DHAP) như một phác đồ cứu trợ (nhóm A), và 63 bệnh nhân nhận VACOP-B trong 12 tuần cộng với HDT và ABMT (nhóm B).
Không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ thuyên giảm hoàn toàn (CRS) giữa hai nhóm: 75% ở nhóm A, và 73% ở nhóm B. Thời gian quan sát theo dõi trung bình là 42 tháng. Tỉ lệ sống còn sau 6 năm là 65% ở cả hai nhóm. Không có sự khác biệt về thời gian sống không bệnh (DFS) hay thời gian sống không tiến triển (PFS) giữa hai nhóm. DFS là 60% và 80% (P = .1) và PFS là 48% và 60% (P = .4) cho nhóm A và B, tương ứng. Tính khả thi của quy trình là vấn đề lớn nhất. Ở nhóm B, 29% bệnh nhân đã đăng ký không thực hiện HDT và ABMT. Đã quan sát được cải thiện thống kê về DFS (P = .008) và xu hướng thuận lợi về PFS (P = .08) cho nhóm bệnh nhân có nguy cơ trung bình/cao được chỉ định tham gia HDT và ABMT.
Trong nghiên cứu này, hóa trị liệu thông thường sau đó là HDT và ABMT như một liệu pháp tuyến đầu dường như không thành công hơn so với điều trị thông thường về mặt tổng thể. Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi gợi ý rằng các nghiên cứu có kiểm soát về HDT cộng với ABMT nên được đề xuất cho các bệnh nhân có nguy cơ cao hơn.