Sự thật trong việc thảo luận về tiên lượng ở các bệnh lý giai đoạn muộn hạn chế tính mạng: một nghiên cứu tổng hợp

Palliative Medicine - Tập 21 Số 6 - Trang 507-517 - 2007
Karen Hancock1, Josephine M. Clayton2, Sharon M. Parker3, Sharon Wal der3, Phyllis Butow4, Sue Carrick3, David C. Currow5, Davina Ghersi3, Paul Glare6, Rebecca Hagerty4, Martin H.N. Tattersall7
1Medical Psychology Research Unit, University of Sydney, New South Wales, Australia.
2Medical Psychology Research Unit, University of Sydney, New South Wales and Department of Palliative Care, Royal North Shore Hospital, Sydney,
3NHMRC Clinical Trials Centre, University of Sydney, New South Wales.
4Medical Psychology Research Unit and School of Psychology, University of Sydney, New South Wales
5Palliative and Support Services, Flinders University, Adelaide
6Department of Palliative Care, Sydney Cancer Centre, Royal Prince Alfred Hospital, New South Wales
7Medical Psychology Research Unit and Department of Cancer Medicine, University of Sydney, New South Wales

Tóm tắt

Nhiều chuyên gia y tế (HP) bày tỏ sự khó chịu khi phải đề cập đến chủ đề tiên lượng, bao gồm cả tuổi thọ giới hạn, và có thể giữ lại thông tin hoặc không công khai tiên lượng. Một nghiên cứu tổng hợp đã được thực hiện với 46 nghiên cứu liên quan đến việc nói sự thật trong việc thảo luận về tiên lượng với bệnh nhân có bệnh lý tiến triển và giai đoạn muộn, đe dọa tính mạng, cũng như người chăm sóc họ. Các nghiên cứu phù hợp với tiêu chí bao gồm đã được xác định bằng cách tìm kiếm trong các cơ sở dữ liệu điện tử (MEDLINE, EMBASE, CINAHL, PsychINFO và Cochrane Register of Controlled Trials) cho đến tháng 11 năm 2004, cùng với việc tìm kiếm bằng tay các nghiên cứu, cũng như bao gồm các nghiên cứu đáp ứng tiêu chí chọn lọc đã được tác giả công bố vào năm 2005. Danh sách tài liệu tham khảo của các nghiên cứu đã xác định cũng được tìm kiếm bằng tay để tìm thêm các nghiên cứu phù hợp. Tiêu chí bao gồm là các nghiên cứu của bất kỳ thiết kế nào đánh giá việc truyền đạt thông tin tiên lượng bao gồm bệnh nhân trưởng thành có bệnh lý giai đoạn muộn, đe dọa tính mạng; người chăm sóc họ; và các HP đủ điều kiện. Kết quả cho thấy rằng mặc dù phần lớn các HP tin rằng bệnh nhân và người chăm sóc nên được cho biết sự thật về tiên lượng, nhưng trong thực tế, nhiều người hoặc là tránh thảo luận về chủ đề này hoặc giữ lại thông tin. Các lý do bao gồm nhận thức về thiếu đào tạo, căng thẳng, không có thời gian để chăm sóc nhu cầu cảm xúc của bệnh nhân, lo ngại về tác động tiêu cực đối với bệnh nhân, sự không chắc chắn trong việc tiên đoán tiên lượng, yêu cầu từ các thành viên trong gia đình về việc giữ lại thông tin và cảm giác không đủ khả năng hoặc tuyệt vọng về việc không có phương pháp điều trị curative tiếp theo. Các nghiên cứu cho thấy bệnh nhân có thể thảo luận về chủ đề này mà không bị ảnh hưởng tiêu cực. Những sự khác biệt và tương đồng trong các phát hiện từ các nền văn hóa khác nhau được khám phá. Y học giảm nhẹ 2007; 21: 507—517

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1016/j.jpainsymman.2005.02.014

Curtis JR, 2001, J Gen Intern Med, 16, 41

10.1136/bmj.323.7322.1144

10.1200/JCO.2002.20.2.503

Greisinger AJ, 1997, Cancer Pract, 5, 147

10.1136/pmj.76.891.26

10.1001/archinte.161.6.868

10.1136/bmj.38103.423576.55

10.1007/s005200100290

10.1093/annonc/mdi211

10.1191/0269216302pm574oa

10.1023/A:1008336415362

10.1038/bjc.1988.218

SUPPORT Principal Investigators., 1995, J Am Geriatr Soc, 45, 500

10.1001/jama.279.21.1709

10.1191/0269216302pm575oa

10.1016/0277-9536(93)90008-R

Parker S., 2006, Communication of prognosis and issues surrounding end-of-life (EOL) in adults in the advanced stages of a life-limiting illness: a systematic review

Wikipedia., 2006, Wikipedia: the free encyclopedia

10.2190/4CAC-0L0K-CXGE-4APP

10.1093/fampra/18.4.440

Kaplowitz S., 1999, Physician communication with seriously ill cancer patients: results of a survey of physicians

10.1016/0277-9536(91)90249-C

10.1007/s00520-005-0789-4

10.1080/09699260.2000.11746889

10.1200/JCO.2005.11.138

10.1016/S0277-9536(98)00453-5

10.1191/0969733003ne592oa

10.1200/JCO.2002.08.004

10.1001/archinte.158.21.2389

10.1046/j.1525-1497.1997.07158.x

10.1001/archinte.1996.00440110047007

10.1378/chest.109.1.258

10.1016/S0885-3924(01)00334-7

10.1111/1467-8519.00330

10.1001/archinte.160.11.1690

Anderlik MR, 2000, Ethics, 11, 251

10.1177/082585970101700404

10.1002/cncr.21010

10.1191/026921600674582192

Pacheco R., 1989, Med Law, 8, 243

Barroso P., 1992, Med Law, 11, 527

10.1046/j.1442-2018.1999.00022.x

10.1002/(SICI)1099-1611(199805/06)7:3<240::AID-PON305>3.0.CO;2-6

10.1097/00002820-200212000-00006

10.1016/0277-9536(87)90111-0

10.1136/jme.23.2.101

10.1136/jme.25.4.296

10.1017/S0963180100005156

10.1097/00002820-200212000-00014

10.1177/089801010101900307

10.1046/j.1365-2702.1999.00214.x

10.12968/ijpn.2000.6.10.9048

10.1007/s005200100291

10.1176/appi.psy.41.6.500

10.1136/ewjm.174.4.247

10.3928/0098-9134-20000901-05

10.1093/annonc/mdh386

10.1177/026921639400800107

10.1046/j.1445-5994.2002.00230.x

10.1053/j.soncn.2004.10.007

10.1177/026921639701100404

Fellowes D., 2004, Cochrane Database Syst Rev, 003751