Chiếu xạ tủy và mô lympho toàn phần (TMLI) với liều 2000cGy kết hợp với dự phòng bệnh ghép chống chủ (GvHD) bằng cyclophosphamide sau ghép (PTCy) là an toàn và có liên quan đến tỷ lệ sống sót không có GvHD/không tái phát thuận lợi sau 1 năm ở bệnh nhân bệnh bạch cầu cấp myeloid (AML)

Blood - Tập 136 - Trang 41-42 - 2020
Anthony S. Stein1, Monzr M. Al Malki1, Dongyun Yang2, Joycelynne Palmer2, Ni-Chun Tsai2, Ibrahim Aldoss1, Haris Ali1, Ahmed Aribi1, Andrew S. Artz1, Len Farol1,3, Susanta Hui4, Chatchada Karanes1, Samer Khaled5, An Liu6, Guido Marcucci7, Ryotaro Nakamura1, Vinod A. Pullarkat1, Eric Radany6, Joseph Rosenthal8, Amandeep Salhotra1
1Gehr Family Center for Leukemia Research, City of Hope, Duarte, CA
2Department of Computational and Quantitative Medicine-BRI, City of Hope National Medical Center, Duarte, CA
3Bone Marrow Transplant Program, Southern California Kaiser Permanente, Los Angeles, CA
4Department of Radiation Oncology, Beckman Research Institute, City of Hope, Duarte, CA
5Department of Hematology and Hematopoietic Cell Transplantation, City of Hope, Duarte, CA
6Department of Radiation Oncology, City of Hope, Duarte, CA
7Department of Hematologic Malignancies Translational Science, Gehr Family Center for Leukemia Research, Hematologic Malignancies and Stem Cell Transplantation Institute, Beckman Research Institute, City of Hope, Monrovia, CA
8Department of Pediatrics, City of Hope, Duarte, CA

Tóm tắt

Thông tin nền: Ghép tế bào huyết học đồng loại (alloHCT) là phương pháp mang lại tỷ lệ chữa khỏi cao nhất cho bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính (AML) với các yếu tố nguy cơ di truyền trung bình hoặc cao. Bệnh ghép chống chủ (GvHD) vẫn là nguyên nhân chính gây tử vong và bệnh tật sau ghép, mặc dù đã có những tiến bộ trong dự phòng và điều trị, gây ra gánh nặng kinh tế đáng kể và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Sẽ rất mong muốn nếu có thể giảm tỷ lệ GvHD ở những bệnh nhân đang trong tình trạng thuyên giảm hoàn toàn (CR) mà không làm tăng nguy cơ tái phát. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã phát triển một chế độ điều trị chuẩn hóa mới bao gồm chiếu xạ tủy và mô lympho toàn phần (TMLI) với 2000 cGy, kết hợp với cyclophosphamide sau ghép (PTCy), nhằm 1) giảm nguy cơ tái phát có thể tăng lên từ PTCy, bằng cách sử dụng liều chiếu xạ TMLI tăng dần, vì việc tăng liều chiếu xạ có thể làm giảm tỷ lệ tái phát sau ghép (Blood, vol 76, pp. 1867-1871, 1990); và 2) giảm nguy cơ GvHD mạn tính bằng cách sử dụng PTCy. Mục tiêu chính của nghiên cứu thí điểm này về TMLI và PTCy (clinicaltrials.gov: NCT03467386) là cải thiện tỷ lệ sống sót không có GvHD/không tái phát (GRFS), được báo cáo là 45% từ chiếu xạ toàn thân (TBI) và dự phòng bằng tacrolimus/sirolimus (BBMT, vol 26(2), pp. 292-299, 2020), ở những bệnh nhân bị AML trong tình trạng thuyên giảm. Bệnh nhân và phương pháp: Tổng cộng 18 bệnh nhân đã được tham gia và điều trị (xem bảng) từ tháng 3 năm 2018 đến tháng 12 năm 2019. Các tiêu chí chính là độ tuổi từ 18 đến 60, ở giai đoạn thuyên giảm hoàn toàn lần đầu tiên hoặc lần thứ hai, kết quả xét nghiệm không có bệnh lý còn lại âm tính bằng phương pháp phân tích tế bào dòng chảy nhiều màu, và chức năng cơ quan bình thường. TMLI được thực hiện từ ngày -4 đến 0 mà không thêm hóa trị. Liều chiếu xạ cho tất cả bệnh nhân (n=18) là 2000 cGy, chia thành từng mẻ 200 cGy hai lần mỗi ngày. Liều chiếu xạ được đưa vào gan và não giữ ở mức 1200 cGy. Các cơ quan còn lại được coi là không bị nhắm. Tất cả bệnh nhân đều nhận tế bào gốc máu ngoại vi vào ngày 0. Cyclophosphamide được sử dụng vào ngày +3 và +4, 50 mg/kg mỗi ngày để phòng ngừa GvHD. Tacrolimus, 1 mg liên tục được điều chỉnh để duy trì mức độ từ 5 đến 10 ng/mL được thực hiện từ ngày +5 đến ngày +90, và G-CSF 5 µg/kg mỗi ngày được sử dụng vào ngày +5 cho đến khi phục hồi số lượng bạch cầu trung tính. Các mục tiêu bao gồm độc tính, GRFS sau 1 năm, sự ghép thành công, sống sót tổng thể (OS), và tỷ lệ tử vong không phải do tái phát (NRM). Độc tính được định nghĩa theo thang điểm Bearman và CTCAE 4.03, trong đó thang thứ hai dành cho độc tính huyết học. Một phân đoạn thử nghiệm an toàn cho bệnh nhân (n=6) được thực hiện để đảm bảo rằng không có độc tính không mong muốn nào xảy ra, cho phép giảm liều xuống còn 1800 cGy. GRFS được định nghĩa là GvHD cấp độ 3-4, GvHD mãn tính cần điều trị toàn thân, tái phát, hoặc tử vong (do bất kỳ nguyên nhân nào), tùy theo loại nào xảy ra trước. Kết quả: Dữ liệu độc tính theo thang điểm Bearman có sẵn cho tất cả bệnh nhân. Trong số các bệnh nhân này, các độc tính cấp độ 2 là độc tính bàng quang và viêm miệng. Không có độc tính cấp độ 3-4 hoặc tử vong liên quan đến độc tính nào được quan sát. GvHD cấp (aGVHD) phát triển ở 2 trong số các bệnh nhân (GvHD cấp độ II-IV 100 ngày: 11.1%, 95%CI: 1.7-30.4); trong số đó, chỉ có 1 bệnh nhân phát triển các cấp độ III-IV (GvHD cấp độ III-IV 100 ngày: 5.6%, 95%CI: 0.3-23.1). Năm bệnh nhân phát triển GvHD mãn tính nhẹ (tỷ lệ cGVHD 1 năm: 28.6%, 95%CI: 7.5%-54.7%). Tỷ lệ GRFS sau 1 năm là 59.3% (95% CI: 28.8-80.3) (Hình). Thời gian theo dõi trung vị là 11.3 tháng (khoảng từ 4.7 đến 25.4) đối với những bệnh nhân còn sống (n=17). Tất cả bệnh nhân đều được ghép thành công. Thời gian phục hồi bạch cầu trung tính và tiểu cầu là 14 ngày (khoảng từ 13-32 ngày) và 20 ngày (khoảng từ 11-49 ngày), tương ứng. Tỷ lệ ước tính của OS và sống sót không tái phát sau 1 năm lần lượt là 100% và 80.8% (95% CI: 50.5-93.6) (Hình). Tỷ lệ tái phát bệnh sau 1 năm là 19.2% (95% CI: 4.1-42.6). Tỷ lệ ước tính của NRM sau 100 ngày và sau 1 năm đều là 0%. Tái phát bệnh sau ghép xảy ra ở 3 bệnh nhân (16.7%). Một bệnh nhân đã chết sau khi tái phát. Kết luận: 1) Chế độ điều trị này không có hóa trị, cùng với PTCy và tacrolimus, là an toàn và khả thi, không có NRM. 2) Tất cả bệnh nhân đều đạt được sự ghép. 3) Những người tham gia có thời gian theo dõi từ ≥1 năm đã ngừng điều trị ức chế miễn dịch, giảm gánh nặng tài chính và cải thiện chất lượng cuộc sống. Các kết quả ban đầu cho thấy tỷ lệ GRFS đã được cải thiện. Một thử nghiệm giai đoạn 2 lớn hơn đang được chuẩn bị để xác nhận những dữ liệu này.

Từ khóa