Độ chính xác của cắt bỏ bằng tay tự do trong phẫu thuật bảo tồn chi các khối u xương

International Orthopaedics - Tập 42 - Trang 1999-2002 - 2018
Bin Li1, Zhiping Deng1, Xiaohui Niu1
1Department of Orthopedic Oncology, Beijing Jishuitan Hospital, The Fourth Clinical College of Peking University, Beijing, China

Tóm tắt

Chiều dài cắt bỏ nên được thiết kế trước khi phẫu thuật bảo tồn chi cho các khối u xương. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá độ chính xác của các ca cắt bỏ bằng tay tự do. Hai trăm bốn mươi tám ca bệnh đã được ghi nhận, bao gồm 173 u xương nguyên phát (osteosarcoma), 24 u tế bào khổng lồ, 16 u sụn (chondrosarcoma), bảy u mô liên kết dạng vòi (spindle cell sarcoma), 14 di căn xương, ba u mô liên kết không biệt hóa (undifferentiated pleomorphic sarcoma), ba u Ewing, hai u mạch (angiosarcoma) và sáu khối u xương và mô mềm khác. Một trăm bốn mươi sáu ca nằm ở xương đùi, 75 ở xương chày, 19 ở xương cánh tay, sáu ở xương quay, một ở xương trụ, và một ở xương mác. Chiều dài cắt bỏ đã được bao gồm trong kế hoạch phẫu thuật trước. Sau phẫu thuật, chúng tôi đo chiều dài của các mẫu. Cả hai chiều dài được so sánh. Các bệnh nhân được phân loại theo vị trí của khối u. Phạm vi chênh lệch chiều dài dao động từ −21 đến 29 mm. Giá trị tuyệt đối trung bình của sự khác biệt là 8.0 ± 6.3 mm. Tổng cộng, 173 trường hợp (69.8%) có giá trị chênh lệch tuyệt đối ≤ 10 mm, 66 trường hợp (26.6%) từ 10-20 mm, và chỉ có 9 trường hợp (3.6%) > 20 mm. Chiều dài trung bình của các mẫu thô (164.1 ± 43.3 mm) dài hơn chiều dài dự kiến (160.7 ± 44.2 mm); p < 0.001. Sự khác biệt là đáng kể ở vùng xương đùi xa và xương chày gần. Dù vậy, độ chính xác của cắt bỏ bằng tay tự do là chấp nhận được trong phương pháp này.

Từ khóa

#cắt bỏ tay tự do #phẫu thuật bảo tồn chi #khối u xương #độ chính xác #u xương nguyên phát

Tài liệu tham khảo

Karakousis CP, Emrich LJ, Rao U, Krishnamsetty RM (2015) Feasibility of limb salvage and survival in soft tissue sarcomas. Cancer 57(3):484–491 Rougraff BT, Simon MA, Kneisl JS, Greenberg DB, Mankin HJ (1994) Limb salvage compared with amputation for osteosarcoma of the distal end of the femur. A long-term oncological, functional, and quality-of-life study. Journal of Bone & Joint Surgery American 76(5):649 Mankin HJ, Gebhardt MC, Jennings LC, Springfield DS, Tomford WW (1996) Long-term results of allograft replacement in the management of bone tumors. Clinical Orthopaedics & Related Research 324(324):86 Peh WC (1999) The role of imaging in the staging of bone tumors. Crit Rev Oncol Hematol 31(2):147–167 Hudson TM, Schiebler M, Springfield DS, Hawkins I Jr, Enneking WF, Spanier SS (1983) Radiologic imaging of osteosarcoma: role in planning surgical treatment. Skelet Radiol 10(3):137 Kawaguchi N, Ahmed AR, Matsumoto S, Manabe J, Matsushita Y (2004) The concept of curative margin in surgery for bone and soft tissue sarcoma. Clinical Orthopaedics & Related Research 419(419):165 O’Flanagan SJ, Stack JP, Mcgee HM, Dervan P, Hurson B (1991) Imaging of intramedullary tumour spread in osteosarcoma. A comparison of techniques. Journal of Bone & Joint Surgery British Volume 73(6):998 Hermann G, Rose JS, Strauss L (1984) Tumor infiltration of the bone marrow: comparative study using computed tomography. Skelet Radiol 11(1):17–21 Deng ZP, Liu BY, Sun Y, Jin T, Li B, Ding Y et al (2017) Transition from tumor tissue to bone marrow in patients with appendicular osteosarcoma after neoadjuvant chemotherapy. Chin Med J 130(18):2215 Cho HS, Oh JH, Han I, Kim HS (2012) The outcomes of navigation-assisted bone tumour surgery: minimum three-year follow-up. Journal of Bone & Joint Surgery British Volume 94(10):1414–1420 Wong KC, Kumta SM, Antonio GE, Tse LF (2008) Image fusion for computer-assisted bone tumor surgery. Clinical Orthopaedics & Related Research 466(10):2533 Wong KC, Kumta SM (2013) Computer-assisted tumor surgery in malignant bone tumors. Clinical Orthopaedics & Related Research® 471(3):750–761