So sánh giữa việc sử dụng Itraconazole dài hạn và ngắn hạn cho dự phòng nấm chính trong người nhận ghép tế bào gốc huyết học đồng loại: Một thử nghiệm đa trung tâm, ngẫu nhiên, mờ (NCT01160952)

Blood - Tập 120 - Trang 1930 - 2012
Ren Lin1, Yonghua Li2, Xiaojun Xu3, Zhiping Fan1, Qianli Jiang1, Fen Huang1, Hongsheng Zhou1, Danian Nie4, Chaoyang Song5, Ziwen Guo3, Jing Sun1, Yang Xiao2, Qifa Liu1
1Department of Hematology, Nanfang Hospital, Southern Medical University, Guangzhou, China
2Hematology Department, General Hospital Of Guangzhou Military Command Of PLA, Guangzhou, China
3Department of Hematology, Zhongshan Hospital, Sun Yat-sen University, Zhongshan, China
4Hematology Department, 2nd Affiliated Hospital of Sun Yat-Sen University, Guangzhou, China
5Department of Hematology, Zhujiang Hospital, Southem Medical University

Tóm tắt

Tóm tắt Nhiễm nấm xâm lấn (IFI) là nguyên nhân chính gây tử vong ở người nhận ghép tế bào gốc huyết học đồng loại (allo-HSCT). Mặc dù việc dự phòng nấm đã được chứng minh là hiệu quả trong việc phòng ngừa IFI sau allo-HSCT, nhưng các tác nhân tối ưu và thời gian dự phòng vẫn là vấn đề gây tranh cãi. Để điều tra ảnh hưởng của thời gian dự phòng đối với IFI sau allo-HSCT, nghiên cứu đa trung tâm, ngẫu nhiên, mờ này đã được thực hiện để so sánh hiệu quả và độ an toàn giữa việc sử dụng Itraconazole dài hạn và ngắn hạn cho dự phòng nấm chính ở người nhận allo-HSCT. Phương pháp: Tổng cộng có 128 bệnh nhân không có tiền sử nhiễm IFI đã được tham gia nghiên cứu này. Việc dự phòng nấm chính bắt đầu khi số lượng bạch cầu WBC < 1.0*10⋀9/L hoặc vào ngày 0. Itraconazole được truyền tĩnh mạch với liều tải 400 mg·d−1 trong 2 ngày, sau đó chuyển sang 200 mg·d−1 và chuyển sang đường uống Itraconazole vào ngày +14 hoặc khi WBC > 1.0*10⋀9/L cho đến 30 ngày sau ghép trong nhóm ngắn hạn hoặc 90 ngày trong nhóm dài hạn. Điểm kết thúc chính là tỷ lệ xảy ra của IFI chắc chắn hoặc có thể xảy ra tại 30 ngày và 90 ngày sau ghép tế bào gốc. Kết quả: Trong số 129 bệnh nhân được đăng ký, dữ liệu của 121 trường hợp đã được sử dụng để xác định điểm kết thúc chính trong quần thể dự định điều trị (59 cho nhóm dài hạn và 62 cho nhóm ngắn hạn) và 7 bệnh nhân đã tử vong do biến chứng ghép hoặc nguyên nhân khác trước khi sử dụng Itraconazole. Các đặc điểm nhân khẩu học và ghép ban đầu tương tự nhau ở hai nhóm. Tỷ lệ xảy ra của IFI chắc chắn và có thể xảy ra trong vòng 90 ngày sau khi ghép là 1.69%. Phân tích dự định điều trị cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ IFI tái phát (chắc chắn hoặc có thể xảy ra) giữa nhóm dài hạn và ngắn hạn (1.69% so với 0%; P=0.311). Tỷ lệ xảy ra của IFI (chắc chắn, có thể và khả thi) ở nhóm dài hạn cao hơn nhóm ngắn hạn trong vòng 90 ngày sau ghép (6.78% so với 0%, P=0.03). Hội chứng GVHD cấp là yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến sự xuất hiện của IFI sau ghép tế bào gốc (OR= 2.750, 95%CI 1.939–3.901, P=0.023). Việc dự phòng đã bị ngừng ở 11 bệnh nhân do sự kiện không dung nạp, bao gồm 1 trong nhóm ngắn hạn và 10 trong nhóm dài hạn (P=0.004). Tỷ lệ xảy ra của các sự kiện bất lợi liên quan đến thuốc ở hai nhóm tương tự nhau (6.78% so với 3.23%, P=0.43). Tỷ lệ sống sót tổng thể tại 6 tháng là 75.74% ở nhóm dài hạn và 84.56% ở nhóm ngắn hạn (P=0.459). Kết luận: Nghiên cứu này chỉ ra rằng Itraconazole có hiệu quả trong việc phòng ngừa IFI trong vòng 30 ngày sau khi ghép tế bào gốc. Việc sử dụng kéo dài thuốc chống nấm để phòng ngừa nhiễm nấm có lợi cho người nhận trong allo-HSCT còn cần được khám phá thêm. Thử nghiệm này đã được đăng ký tại www.clinicaltrials.gov với mã NCT01160952. Công bố: Không có xung đột lợi ích nào liên quan để tuyên bố.

Từ khóa