Nội dung được dịch bởi AI, chỉ mang tính chất tham khảo
Giảm tiểu bào T cải thiện chỉ số chấm điểm tổng hợp không có bệnh ghép chống lại chủ thể, không tái phát sau cấy ghép tế bào gốc huyết học đồng loại
Tóm tắt
Giới thiệu: Cấy ghép tế bào gốc huyết học đồng loại (HSCT) là một phương pháp điều trị đã được thiết lập tốt cho nhiều loại bệnh ác tính huyết học. Đáng tiếc, phương pháp này liên quan đến tỷ lệ bệnh tật và tử vong đáng kể liên quan đến sự tái phát của bệnh ung thư và các biến chứng sau cấy ghép, bao gồm bệnh ghép chống lại chủ thể (GvHD). Sống sót không có GvHD và không tái phát (GRFS) là một chỉ số tổng hợp được báo cáo gần đây, cho phép ước lượng đồng thời nguy cơ tử vong, tái phát và GvHD. Giảm tiểu bào T (TCD) là một chiến lược đã được xác lập rõ ràng để phòng ngừa GvHD, nhưng có thể làm tăng nguy cơ tái phát. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã điều tra ảnh hưởng của TCD một phần (pTCD) đối với GRFS nhằm đánh giá tác động của nó đến khả năng tồn tại không có bệnh tật ở bệnh nhân. Bệnh nhân và phương pháp: Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu hồi cứu trên 333 bệnh nhân đã trải qua cấy ghép HSCT đồng loại cho các bệnh ác tính huyết học tại trung tâm của chúng tôi từ năm 2004 đến 2014 với các mảnh ghép từ anh chị em đồng huyết tương HLA hoặc người cho không quan hệ HLA 10/10. 171 bệnh nhân đã nhận mảnh ghép pTCD, thu được qua quá trình nuôi cấy với alemtuzumab và rửa sạch trước khi truyền, tiếp theo vào ngày +1 là bổ sung lại tế bào T từ người cho. 162 bệnh nhân nhận mảnh ghép không TCD (có tế bào T). Infusion tế bào lympho người cho được thực hiện sau ba tháng cho tất cả các bệnh nhân không có GvHD nhận mảnh ghép pTCD với điều trị giảm cường độ và khi cần thiết cho bệnh nhân, đã cấy ghép với cả mảnh ghép pTCD hoặc không TCD với tình trạng hoà hợp hỗn hợp. Các ước tính Kaplan-Meier được sử dụng để xác định xác suất sống sót tổng thể (OS), sống sót không tiến triển (PFS) và GRFS trong 1 năm và 5 năm. Các sự kiện xác định GRFS bao gồm GvHD cấp 3-4, GvHD mạn tính cần điều trị hệ thống, tái phát hoặc tử vong. Sự khác biệt giữa các đường cong sống sót được xác định bằng cách sử dụng kiểm tra Log-rank Mantel-Cox. Phân tích hồi quy Cox được sử dụng để kiểm tra ảnh hưởng độc lập đến OS, PFS và GRFS của các yếu tố lâm sàng bao gồm tuổi, bệnh nền, tình trạng bệnh tại thời điểm cấy ghép, chỉ số nguy cơ bệnh, chế độ điều trị, loại người cho, nguồn tế bào gốc, năm cấy ghép và giảm tiểu bào T. Các ước tính xảy ra tích lũy của tái phát và tử vong không tái phát (NRM) được tính toán với tái phát hoặc tử vong do nguyên nhân khác được xác định là các sự kiện cạnh tranh bằng phương pháp Fine và Gray. Kết quả: Theo các thực hành của cơ sở y tế, nhóm nhận mảnh ghép pTCD có nhiều bệnh nhân được cấy ghép trong trạng thái remiss hoàn toàn (67%) hơn nhóm nhận mảnh ghép không TCD (41%, p <0.0001). Tương tự, nhóm pTCD có ít bệnh nhân có chỉ số nguy cơ bệnh cao/rất cao (17%) hơn nhóm không TCD (51%, p <0.0001). pTCD có liên quan đến OS và PFS 1 năm và 5 năm được cải thiện trong phân tích đơn biến, nhưng mối liên hệ này không đạt ý nghĩa trong phân tích đa biến, khi xem xét các yếu tố lâm sàng khác nhau giữa các nhóm bệnh nhân. pTCD có liên quan đến GRFS được cải thiện đáng kể (1y 53,2%, 95%CI 45,4%-60,4%; 5y 40,3%, 95%CI 32,5%-47,9%) so với cấy ghép không TCD (1y 36,6%, 95%CI 29,1%-44,0%, p<0.0001; 5y 24,1%, 95%CI 17,1%-31,9%, p<0.0001). Tác động của pTCD lên GRFS vẫn rất có ý nghĩa trong phân tích đa biến dựa trên các yếu tố lâm sàng bao gồm tình trạng bệnh tại thời điểm cấy ghép và chỉ số nguy cơ bệnh (1y HR 0,624, 95%CI 0,440-0,884, p=0,0079; 5y HR 0,625, 95%CI 0,454-0,861, p=0,0040). Không có tác động của pTCD được quan sát trên tỷ lệ xảy ra tích lũy của tái phát (1y pTCD 37,4%, 95%CI 29,9%-45%, không TCD 33,3%, 95%CI 26,3%-40,5%, p=0,317; 5y pTCD 49,4%, 95%CI 40,4%-57,9%, không TCD 47,2% 95%CI 39%-54,9%, p=0,396), mặc dù kết quả này có thể là hệ quả của sự khác biệt đã đề cập ở trên giữa các nhóm bệnh nhân được nghiên cứu. Ngược lại, tỷ lệ xảy ra tích lũy của NRM ở 1 năm và 5 năm đã giảm đáng kể ở bệnh nhân nhận pTCD (1y 4,8% 95%CI 2,2%-8,7%; 5y 9,7%, 95%CI 5,6%-15%) so với bệnh nhân nhận HSCT đồng loại không TCD (1y 12,5%, 95%CI 7,9%-18,2%, p=0,0098; 5y 15,9% 95%CI 10,5%-22,2%, p=0,0449). Kết luận: pTCD có vẻ như cải thiện GRFS ở những người nhận HCST đồng loại mà không ảnh hưởng đáng kể đến OS và PFS. Những kết quả này mở rộng kiến thức của chúng ta về tác động của TCD lên bệnh tật và tử vong liên quan đến cấy ghép, cho thấy rằng pTCD có thể cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân bằng cách giảm GvHD cấp và NRM mà không làm suy giảm tiềm năng chữa trị của HSCT đồng loại.