Lựa chọn người cho tế bào gốc huyết học đồng loại không tương đồng dựa trên các kiểu hình KIR3DL1 là khả thi và mang lại sự sống sót không bệnh tốt hơn cho người nhận ghép mắc MDS và AML

Blood - Tập 128 - Trang 990 - 2016
Brian C. Shaffer1,2, Glenn Heller3, Jean-Benoit Le Luduec4, Jack Vahradian5, Miguel Perales6, Sergio A. Giralt7,3, Roni Tamari2, Boglarka Gyurkocza2, Ann A. Jakubowski2,7, E B Papadopoulos8, Jeanette E Boudreau9, Nancy A. Kernan10, Katharine C. Hsu2
1Weill Cornell Medical College, New York, NY
2Department of Medicine, Adult Bone Marrow Transplant Service, Memorial Sloan Kettering Cancer Center, New York, NY
3Memorial Sloan Kettering Cancer Center, New York, NY
4Memorial Sloan Kettering Cancer Center, Sloan-Kettering Institute, New York, NY
5Memorial Sloan Kettering Cancer Center, Sloan Kettering Institute, New York, NY
6Allogeneic Bone Marrow Transplantation - Medicine, Memorial Sloan-Kettering Cancer Center, New york, NY
7Weill Cornell Medical College, Cornell University, New York, NY
8Medicine, Memorial Sloan-Kettering Cancer Center, New York, NY
9Sloan-Kettering Institute, Memorial Sloan-Kettering Cancer Center, New York, NY
10Pediatric BMT Service, Memorial Sloan Kettering Cancer Center, New York, NY

Tóm tắt

Tóm tắt Các tế bào Tự nhiên Killer (NK) của người cho có tác dụng chống lại bệnh bạch cầu mạnh mẽ sau khi ghép tế bào gốc huyết học đồng loại (allo HCT). Các thụ thể như Ig killer (KIR) đóng vai trò trung tâm trong việc điều chỉnh chức năng của các tế bào NK. Nổi bật trong số đó là KIR3DL1 ức chế có độ đa hình allel cao. Chúng tôi đã chứng minh rằng các allele KIR3DL1 biểu hiện cao (các nhóm allele KIR3DL1 *001 và *002) liên kết ưu tiên với HLA-Bw4 với I80 để mang lại tín hiệu ức chế mạnh. Tương tự, các allele KIR3DL1 biểu hiện thấp (các nhóm allele KIR3DL1 *005 và *007) liên kết với HLA-Bw4 với T80 để tạo ra tín hiệu ức chế mạnh. Trong một nhóm hồi cứu gồm 299 bệnh nhân trải qua allo HCT cho AML, chúng tôi đã chứng minh rằng những tổ hợp KIR3DL1 donor/recipient HLA-Bw ức chế mạnh (KIR3DL1-HIGH) dẫn đến tỷ lệ tái phát ở người nhận cao hơn so với các kết nối donor/recipient KIR3DL1/HLA-Bw khác có tín hiệu ức chế thấp hoặc không có (KIR3DL1-LOW/NO). (Giglio F et al, Tóm tắt Hội nghị thường niên ASH, 2012) Tại đây, chúng tôi đã đánh giá xem việc phân loại và sử dụng các kiểu hình KIR3DL1 trong việc chọn người cho ghép không tương đồng có khả thi không, và liệu sự can thiệp này có dẫn đến kết quả tốt hơn cho bệnh nhân đang trải qua ghép tế bào cho AML và MDS không. Chúng tôi đã thực hiện kiểm tra kiểu allele KIR3DL1 với độ phân giải trung gian dựa trên PCR-SSP cho tất cả các người hiến tặng người lớn không tương đồng được đánh giá cho bệnh nhân MDS và AML tại trung tâm của chúng tôi từ năm 2013 đến nay như đã mô tả trước đó. (Boudreau J et al, PLoS One, 2014) Tình trạng KIR3DL1 đã được cung cấp cho các bác sĩ điều trị, những người đã thực hiện chọn lựa người cho cuối cùng. Tổng cộng 941 người hiến tế bào gốc allo HCT dự kiến đã thực hiện phân loại HLA có độ phân giải cao và phân loại kiểu hình KIR3DL1 cho 252 bệnh nhân (trung bình mỗi bệnh nhân = 4, khoảng 1-12). Trong tất cả những người hiến tế bào được đánh giá, có 27% được xác định là KIR3DL1-HIGH khi xem xét HLA-Bw tương ứng của người nhận. Việc đánh giá nhiều người hiến tặng làm tăng khả năng tránh một người hiến tặng KIR3DL1-HIGH: Trong số các người nhận có một người hiến tặng được đánh giá, 27% chỉ có người hiến tặng KIR3DL1-HIGH có sẵn so với 12% ở những người nhận có 2-3 người hiến tặng được đánh giá và 4% cho những người nhận có >3 người hiến tặng được đánh giá (P < 0.0001). Trong số tất cả các bệnh nhân được đánh giá, 41% có cả người hiến tặng KIR3DL1-HIGH và KIR3DL1-LOW/NO có sẵn, cho thấy một sự lựa chọn dựa trên KIR3DL1 là khả thi. Trong số 252 bệnh nhân được đánh giá, 115 bệnh nhân đã tiến hành ghép allo HCT (48 với MDS, 67 với AML). Độ tuổi trung bình tại thời điểm ghép là 62 tuổi (khoảng 3.6-78). Các người hiến tế bào HLA đã được ghép tương thích trong 105 ca ghép và không tương thích ở một locus trong 10 ca ghép. Điều kiện ghép là tủy diệt trong 73 ca (11 ca với xạ trị toàn thân). Dự phòng GVHD với sự chọn lọc CD34 + ex vivo trong 65 bệnh nhân và với tacrolimus/methotrexate ở những bệnh nhân còn lại. Thời gian theo dõi trung bình ở các bệnh nhân được ghép là 13.1 tháng (khoảng 0.5-43.3 tháng). Trong phân tích đơn biến, tỷ lệ sống sót không bệnh trong 2 năm là 64% (khoảng tin cậy 95%: 54-76%) ở những người có người hiến tặng KIR3DL1-LOW/NO so với 39% (22-68%) ở những người nhận có người hiến tặng KIR3DL1-HIGH (P = 0.05). Tỷ lệ tái phát tương tự nhưng có lợi cho bệnh nhân có người hiến tặng KIR3DL1-LOW/NO (26% [15-37%] so với 35% [13-57%], P = 0.5). Tỷ lệ sống tổng thể trong 2 năm tương tự giữa những người có KIR3DL1-LOW/NO so với KIR3DL1-HIGH (75% [65-86%] so với 69% [52-91%], P = 0.43). Thời gian từ khi bắt đầu tìm kiếm người hiến chính thức đến khi ghép không khác biệt giữa những người nhận có KIR3DL1-LOW/NO so với KIR3DL1-HIGH (trung bình 81 ngày so với 83 ngày, P = 0.97). Những người nhận có người hiến KIR3DL1-LOW/NO có điểm rủi ro ghép của CIBMTR là thấp = 53, trung bình = 6, và cao = 33; trong khi những người nhận có người hiến tặng KIR3DL1-HIGH là thấp = 17, trung bình = 2, và cao = 4 (P = 0.15). Những kết quả này cho thấy rằng mức độ nghiêm trọng của bệnh và mức độ khẩn cấp của ghép không ảnh hưởng đến việc có thể chọn người hiến KIR3DL1-LOW/NO hay không. Tóm lại, những dữ liệu dự kiến này từ 115 bệnh nhân tại một trung tâm hỗ trợ những kết quả tốt hơn cho bệnh nhân mắc AML và MDS đang trải qua ghép tế bào gốc không tương đồng sử dụng người cho có sự ức chế KIR3DL1 thấp hoặc không có. Một nghiên cứu đa trung tâm, tiềm năng về việc sử dụng lựa chọn dựa trên kiểu gen HLA và KIR cho các người hiến không tương đồng cho bệnh nhân được ghép tế bào gốc cho AML đang được tiến hành (NCT02450708). Hình 1. Hình 1. Hình 2. Hình 2. Các công bố tài chính Kernan: Gentium: Tài trợ Nghiên cứu; Viện Ung thư Quốc gia - Viện Y tế Quốc gia: Tài trợ Nghiên cứu.

Từ khóa