Ghép tế bào gốc lần hai cho sự tái phát của các bệnh ác tính huyết học ở trẻ em sau khi ghép lần đầu.

Blood - Tập 116 - Trang 3448 - 2010
Nao Yoshida1, Nobuhiro Watanabe2, Kimikazu Matsumoto1, Hirotoshi Sakaguchi1, Asahito Hama3, Yoshiyuki Takahashi3, Naoko Maeda4, Keizo Horibe4, Seiji Kojima3, Koji Kato1
1Department of Hematology and Oncology, Children's Medical Center, Japanese Red Cross Nagoya First Hospital, Nagoya, Japan
2Department of Hematology and Oncology, Shizuoka Children's Hospital, Shizuoka, Japan
3Department of Pediatrics, Nagoya University Graduate School of Medicine, Nagoya, Japan
4Department of Pediatrics, National Hospital Organization, Nagoya Medical Center, Nagoya, Japan

Tóm tắt

Abstract Hướng điều trị cho các bệnh nhân mắc bệnh ác tính huyết học có sự tái phát sau khi ghép tế bào gốc (SCT) là rất hạn chế. Ghép SCT lần hai có thể là một liệu pháp cứu chữa hiệu quả cho một số bệnh nhân tái phát sau khi ghép lần đầu. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu về ghép SCT lần hai đều tập trung vào các bệnh nhân trưởng thành, và ý nghĩa của lựa chọn điều trị này trong các nhóm trẻ em vẫn còn chủ yếu chưa được biết đến. Để xác định các yếu tố dự đoán, chúng tôi đã đánh giá lại kết quả của ghép SCT lần hai ở 44 trẻ em (25 bé trai và 19 bé gái) mắc bệnh ác tính huyết học, những người đã nhận ghép SCT lần hai do sự tái phát của bệnh sau khi ghép lần đầu từ tháng 9 năm 1986 đến tháng 1 năm 2008 tại ba đơn vị ghép ở Nagoya, Nhật Bản. Ảnh hưởng của các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn đối với sống sót tổng thể (OS), sống sót không có bệnh (DFS), tỷ lệ tái phát (RR) và tỷ lệ tử vong không phải do tái phát (NRM) được đánh giá bằng cách sử dụng mô hình hồi quy nguy cơ tỷ lệ Cox, với sự xem xét nền tảng của ghép SCT lần đầu và lần hai. Tuổi trung bình tại ghép SCT lần hai là 9 tuổi (khoảng từ 1-18 tuổi). Bệnh nền là AML/MDS ở 22 bệnh nhân và ALL/ML ở 22 bệnh nhân. Tình trạng bệnh tại ghép SCT lần hai là đạt lui bệnh hoàn toàn (CR) ở 18 bệnh nhân và không đạt CR ở 26 bệnh nhân. Thời gian trung bình từ ghép SCT lần đầu đến tái phát và ghép SCT lần hai lần lượt là 6 tháng (khoảng từ 1-84 tháng) và 11 tháng (khoảng từ 4-92 tháng). Đối với ghép SCT lần đầu, loại người hiến tặng là tự thân (n=14), liên quan (n=21), hoặc không liên quan (n=9), nguồn tế bào gốc là máu ngoại vi (PB) ở 6 bệnh nhân, tủy xương (BM) ở 37 bệnh nhân, hoặc máu cuống rốn (CB) ở 1 bệnh nhân, và chế độ điều trị trước ghép là tiêu diệt tủy xương (n=35) hoặc không tiêu diệt (n=9). Đối với ghép SCT lần hai, loại người hiến tặng là liên quan (n=20) hoặc không liên quan (n=24), nguồn tế bào gốc là PB (n=2), BM (n=39), hoặc CB (n=3), và chế độ điều trị trước ghép là tiêu diệt tủy xương (n=37) hoặc không tiêu diệt (n=7). Tổng thể, 10 bệnh nhân còn sống với thời gian theo dõi trung bình là 67 tháng từ ghép SCT lần hai, và xác suất OS sau 5 năm là 22%. Tỷ lệ DFS, RR và NRM sau 5 năm lần lượt là 19%, 53% và 55%. Trong số 44 bệnh nhân, 34 bệnh nhân đã chết sau khi ghép SCT lần hai; 14 bệnh nhân chết do tái phát và 20 do các biến chứng. Sự sống sót của các bệnh nhân có tình trạng không đạt CR tại ghép SCT lần hai thấp hơn một cách có ý nghĩa so với sự sống sót của các bệnh nhân đạt lui bệnh (8% so với 40%; P = .01). Đặc biệt, tất cả 14 bệnh nhân đã chết sau tái phát đều không đạt lui bệnh tại ghép SCT lần hai. Trong phân tích đa biến, không đạt CR tại ghép SCT lần hai là yếu tố nguy cơ duy nhất ảnh hưởng đến sự sống sót (P = .01). Ngoài ra, không đạt CR tại ghép SCT lần hai (P = .005) là yếu tố nguy cơ đáng kể nhất cho sự tái phát, tiếp theo là việc sử dụng tủy xương không liên quan làm nguồn tế bào gốc tại ghép SCT lần đầu (P = .01) và tuổi tại ghép SCT lần hai từ ≥10 tuổi (P = .01). Không có yếu tố nguy cơ đáng kể nào được xác định cho NRM. Tóm lại, ghép SCT lần hai chỉ mang lại cơ hội chữa bệnh rất hạn chế cho các bệnh nhân có tiền sử ghép tủy xương không liên quan ở ghép SCT lần đầu hoặc tình trạng không đạt CR tại ghép SCT lần hai. Mặt khác, kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng ghép SCT lần hai vẫn là một lựa chọn điều trị hiệu quả đủ cho nhóm trẻ em có tình trạng đạt lui bệnh tại ghép SCT lần hai, với tỷ lệ sống sót lâu dài lên tới 40%.

Từ khóa