Hội chứng SAPHO: Một bài tổng luận

Iva Rukavina1
1Department of Paediatrics, University Hospital Centre Zagreb, Kišpatićeva 12, 10000, Zagreb Croatia

Tóm tắt

Giới thiệu

Hội chứng viêm khớp – mụn trứng cá – mụn mủ – tăng sinh xương – viêm xương (SAPHO) là một từ viết tắt cho nhiều triệu chứng liên quan đến xương khớp và da có thể xuất hiện ở cùng một bệnh nhân. Đây là một hội chứng hiếm gặp, nhưng do nhận thức về nó ngày càng tăng, đã có ngày càng nhiều báo cáo về hội chứng này trong tài liệu.

Mục tiêu

Mục tiêu của bài tổng quan này là tóm tắt tình trạng kiến thức hiện tại về hội chứng SAPHO khởi phát ở trẻ em và người lớn, và thảo luận về các chiến lược điều trị cần được xem xét.

Kết quả

Hội chứng SAPHO có thể ảnh hưởng đến bệnh nhân ở mọi lứa tuổi, và đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân gây ra hội chứng này. Hội chứng có những đặc điểm hình ảnh rõ ràng, rất quan trọng trong việc chẩn đoán. Cũng có một số tiêu chí chẩn đoán, nhưng chúng cần được xác thực thêm. Chưa có phác đồ điều trị chuẩn nào được đưa ra, và các phương pháp điều trị hiện tại không có cơ sở bằng chứng do tính hiếm gặp của hội chứng. Việc điều trị là thực nghiệm và nhằm mục đích giảm đau và điều chỉnh quá trình viêm. Phác đồ điều trị bao gồm thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs) như là tác nhân hàng đầu. Kháng sinh, corticosteroid, thuốc điều chỉnh bệnh thấp khớp, các chế phẩm sinh học nhắm vào yếu tố hoại tử u alpha hoặc interleukin-1, và bisphosphonate đều đã được sử dụng với mức độ thành công khác nhau. Phẫu thuật chỉ được thực hiện để điều trị các biến chứng. Mặc dù là một bệnh có dự đoán khả quan trong dài hạn, việc điều trị vẫn là một thách thức và kết quả thường gây thất vọng, đặc biệt là với thành phần da của bệnh.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1093/rheumatology/keh295

10.1016/j.berh.2011.01.017

10.2174/1874325000903010100

Khanna L, 2012, Iowa Orthop J, 32, 189

10.1002/art.22087

Hayem G, 2004, Rev Prat, 54, 1635

10.1007/s00256-003-0629-x

10.1136/ard.55.11.789

10.1016/S0738-081X(99)00115-7

10.1053/sarh.2000.8371

10.1016/S0049-0172(99)80027-4

10.1093/rheumatology/keq122

10.1016/j.ijom.2010.07.011

10.1007/s00586-008-0722-x

10.2147/JIR.S29981

Hukuda S, 2001, J Rheumatol, 28, 554

10.1016/j.radi.2011.11.001

Souza A, 2011, Bull NYU Hosp Jt Dis, 69, 185

Burgemeister LT, 2012, Neth J Med, 70, 444

10.1007/s10067-006-0274-6

Arnson Y, 2008, Clin Exp Rheumatol, 26, 1119

10.1007/BF01966491

10.1186/ar2812

10.1016/j.jbspin.2012.08.002

10.1002/art.23942

10.1016/S0901-5027(00)80125-3

10.3899/jrheum.090863

10.1016/S0300-9785(83)80074-X

10.1016/S1042-3699(02)00073-0

10.1093/rheumatology/ken185

10.1038/sj.ejhg.5200789

10.1007/s11926-012-0239-5

10.1007/BF02208686

10.1007/s004310050761

10.1016/j.crad.2011.08.014

10.1016/0030-4220(94)90170-8

10.1007/BF00366761

Maugars Y, 1995, J Rheumatol, 22, 2135

10.1148/radiographics.15.5.7501856

10.1259/dmfr/23060413

10.1016/S0950-3579(94)80022-7

10.1016/j.autrev.2008.07.030

Fruehauf J, Cierny-Modrè B, Caelen Lel-S, Schwarz T, Weinke R, Aberer E (2009) Response to infliximab in SAPHO syndrome. BMJ Case Rep. doi:10.1136/bcr.10.2008.1145

10.1007/s003300050475

10.1136/ard.40.6.547

10.1016/j.remn.2010.01.001

10.1007/s003300050476

10.1002/art.24540

10.1148/radiol.2523081335

10.1136/ard.56.1.52

10.1002/art.1780290216

Petty RE, 1998, J Rheumatol, 25, 1991

10.1016/j.semarthrit.2012.03.012

10.1177/1759720X11398333

10.1002/art.1780400110

10.1007/s003930070059

10.1093/rheumatology/keh149

10.2214/ajr.156.5.2017922

10.2340/00015555-0822

10.1136/annrheumdis-2011-200743

Taylor HG, 1992, Br J Clin Pract, 46, 276, 10.1111/j.1742-1241.1992.tb10368.x

10.1016/j.oooo.2013.08.004