Vai trò của các sản phẩm bôi ngoài da và bổ sung dinh dưỡng trong việc điều chỉnh stress oxy hóa

International Journal of Cosmetic Science - Tập 24 Số 6 - Trang 331-339 - 2002
Pierfrancesco Morganti1, C Bruno2, F Guarneri3, A. Cardillo4, P. Del Ciotto4, Francesco Valenzano3
1R&D Mavi Sud S.r.l., Viale dell'Industria 1, 04011 Aprilia (LT), Italy.
2Physiology Institute, University of Urbino, Urbino, and
3R&D International Society of Cosmetic Dermatology, Rome, Italy
4R&D Mavi Sud S.r.l., Viale dell'Industria 1, 04011 Aprilia (LT),

Tóm tắt

Tóm tắt

Đặt nền tảng: Các bằng chứng cho thấy các dấu hiệu lão hóa da như nếp nhăn, bề mặt da khô và tăng sắc tố actin có thể liên quan đến tổn thương oxy hóa tích lũy xảy ra trong suốt cuộc đời của chúng ta. Để chống lại những tổn thương oxy hóa này, da được trang bị một mạng lưới hệ thống chống oxy hóa có enzym và không có enzym, chẳng hạn như tocopherols, polyphenol ascorbate. Tất cả các hợp chất này được sử dụng bôi ngoài da qua mỹ phẩm hoặc đường uống qua các thực phẩm bổ sung dinh dưỡng, đã được chứng minh là có tác dụng chống oxy hóa/bảo vệ trên da hoặc tế bào da. Mục tiêu: Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá hoạt động của các chất chống oxy hóa tại chỗ và thực phẩm bổ sung dinh dưỡng, cả in vitroin vivo. Phương pháp: Một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có kiểm soát giả dược đã được tiến hành trong 8 tuần trên 30 tình nguyện viên lớn tuổi có làn da khô, phụ nữ từ 48 đến 59 tuổi, bị khô da vừa và lão hóa do ánh sáng. Các lipid bề mặt da, độ ẩm của da và sự xác định MDA đã được phát hiện tại chỗ bằng Hệ thống 3C. ROS đã được đánh giá trên huyết thanh máu và trên bạch cầu người được kích thích bởi IL-3 thông qua Hệ thống Thiết bị đo ROS ở bước sóng 505 nm. Tất cả các đối tượng đã bôi hai lần một ngày trong 2 tháng một gel nanocolloidal và/hoặc uống thực phẩm bổ sung với liều hai viên mỗi ngày. Tất cả các công thức được sử dụng đều giàu chất chống oxy hóa (axit ascorbic, tocopherol, axit alpha-lipoic, melatonin, emblica). Kết quả: Stress oxy hóa và do đó sự peroxid hóa lipid giảm từ 30 đến 40% (P < 0.005) trên huyết thanh máu của tất cả các đối tượng được điều trị bằng các hợp chất chống oxy hóa bôi ngoài da và đường uống. Cả các gốc tự do trong huyết thanh máu và trên da (in vivo) và ROS do chiếu xạ bạch cầu bằng ánh sáng UVB gây ra (in vitro), đều có vẻ thấp hơn đáng kể ở các đối tượng được điều trị bằng chất chống oxy hóa. Kết luận: Từ dữ liệu thu được, có thể kết luận rằng tất cả các hợp chất được sử dụng đều đóng vai trò thú vị như các tác nhân bảo vệ da tại chỗ và toàn thân, nhờ vào tính chất chống oxy hóa hấp dẫn của chúng. Hơn nữa, điều trị bằng chất chống oxy hóa có vẻ là một phương pháp trị liệu đầy hứa hẹn trong việc giảm stress oxy hóa ở những người bị ảnh hưởng bởi lão hóa do ánh sáng.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

Witt E.H., 1993, Oxidative Stress in Dermatology, 29

Thiele J.J., 1997, Tropospheric ozone an emerging environmental stress to skin, Biol. Chem., 378, 1299

Weber S.U., 1999, Exercise and Oxygen Toxicity

Guarneri B., 2000, Photoaging and free radicals: correlation between skin biochemical properties and plasmatic levels of skin oxidative species and antioxidant compounds, J. Appl. Cosmetol., 18, 65

Okarinen A., 1990, The aging of skin: chronoaging versus photoaging, Photoderm. Photoin. Photomed., 7, 3

Emerit I., 1992, Free radicals and aging of the skin, EXS, 62, 328

Thiele J.J., 2000, Drugs VS Cosmetics: Cosmeceuticals?, 145

10.1159/000018064

10.1046/j.1365-2133.1998.02062.x

10.1016/S0271-5317(98)00057-8

Santos M.S., 1998, β‐Carotene‐induced enhancement of natural killer cell activity in elderly men: an investigation on the role of citokines, Am. J. Nutr., 68, 164, 10.1093/ajcn/68.1.164

Morganti P., 2001, Topical and systemic photoprotectants to prevent light‐induced reaction, Eurocosmetics, 9, 18

Morganti P., 2002, SPC UK, 75, 95

Zatz J.I., 1994, Enhancing skin penetration of actives with the vehicle, Cosmet. Toilet, 9, 27

10.1016/S0738-081X(01)00183-3

Cardillo A., 1994, A fast non‐invasive method for skin hydration control, J. Appl. Cosmetol., 12, 11

Fabrizi G., 1998, Metodologie Non Invasive Di Valutazione Cutanea: 3C System‐IL Check‐Up. C.A. Bartoletti, Medicina Estetica, Metodologie Diagnostiche, Preventive E Correttive., 703

Alberti A. Bolognini I. Carratelli M. Della Bona M.A.andAcciatelli D.Assessing Oxidative Stress with the D‐Rom Test. Some Mechanicistic Considerations.SFRE Summer Meeting pp.82–83. (1997).

10.1016/0891-5849(89)90042-7

Morganti P., 1999, Fotoprotezione e stress ossidativo, Cosmet. Tecnol., 2, 39

Morganti P., 2000, The effects of gelatin‐glycine on oxidative stress, Cosmet. Toil., 115, 47

Morganti P., 2000, The radical protection factor for innovative nutriceuticals, J. Appl. Cosmetol., 18, 29

Cesarone M.R., 1999, A single test to monitor oxidative stress, Int. Angiol., 18, 127

10.1163/156856700X00769

Pugliese P., 1990, Clinical Safety and Efficacy Testing of Cosmetics, 295

Fischer T., 1999, Effect of melatonin as a radical scavenger on UV‐irradiated, IL‐3 stimulated leukocytes, Arca Dermatol. Res., 291, 145

Fischer T., 2001, Oxidants and Antioxidants in Cutaneous Biology, 165

10.3109/01485019808987929