Phân tích hồi cứu cho thấy không có lợi thế nào đối với việc quản lý phẫu thuật các gãy xương trụ xa

HAND - Tập 6 - Trang 378-383 - 2011
Emily A. Williams1, Jeffrey B. Friedrich2,3
1Plastic Surgery Northwest, Spokane, USA
2Division of Plastic Surgery and Department of Orthopedics, University of Washington, Seattle, USA
3Seattle, USA

Tóm tắt

Gãy xương trụ xa ở phần một phần ba cuối (gãy xương kiểu “cán chổi đêm”) là một chấn thương thường gặp nhưng chưa có sự đồng thuận rõ ràng về cách quản lý tối ưu. Mục đích của nghiên cứu này là so sánh kết quả lâm sàng của các trường hợp gãy xương trụ xa điều trị phẫu thuật và không phẫu thuật. Các bệnh nhân được điều trị trong một khoảng thời gian 5 năm tại một trung tâm chấn thương loại I cho gãy xương trụ xa đã được xác định và hồ sơ y tế được phân tích. Dữ liệu được thu thập về nhân khẩu học, cơ chế chấn thương, kiểu gãy, loại điều trị, thời gian ước tính để xương hồi phục, và các biến chứng. Thời gian hồi phục xương được phân tích bằng kiểm định t, và các loại điều trị được phân tích bằng kiểm định chi bình phương. Bốn mươi bảy bệnh nhân với 48 gãy xương trụ đáp ứng tiêu chí tham gia nghiên cứu. Thời gian theo dõi trung bình là 36 tuần. Một phần ba nhóm là nữ và tuổi trung bình của bệnh nhân là 43 tuổi. Mười tám trường hợp gãy xương trụ được điều trị bằng phẫu thuật. Không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm không phẫu thuật và nhóm phẫu thuật về tỷ lệ bệnh nhân có góc nghiêng lớn hơn 15° hoặc dịch chuyển lớn hơn 25%. Không có sự khác biệt đáng kể về thời gian đến hợp nhất xương. Nhóm phẫu thuật có nhiều biến chứng hơn, nhưng tỷ lệ không có sự khác biệt đáng kể so với nhóm không phẫu thuật. Các gãy xương trụ xa đơn độc, bao gồm cả những trường hợp bị nghiêng lớn hơn 15° hoặc dịch chuyển hơn 25%, đều có vẻ hồi phục tốt với điều trị không phẫu thuật. Việc điều trị phẫu thuật cho các gãy xương trụ xa đơn độc đóng kín dường như không mang lại lợi thế hơn so với điều trị không phẫu thuật.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

Atkin DM, Bohay DR, Slabaugh P, Smith BW. Treatment of ulnar shaft fractures: a prospective, randomized study. Orthopedics. 1995;18(6):543–7. Brakenbury PH, Corea JR, Blakemore ME. Non-union of the isolated fracture of the ulnar shaft in adults. Injury. 1981;12(5):371–5. Corea JR, Brakenbury PH, Blakemore ME. The treatment of isolated fractures of the ulnar shaft in adults. Injury. 1981;12(5):365–70. Gebuhr P, Hölmich P, Orsnes T, Soelberg M, et al. Isolated ulnar shaft fractures: comparison of the treatment by functional brace and long-arm cast. J Bone Joint Surg. 1992;74(5):757–9. Handoll HH, Pearce PK. Interventions for isolated diaphyseal fractures of the ulna in adults. Cochrane Database Syst Rev. 2004; (3):CD000523 Hooper G. Isolated fractures of the shaft of the ulna. Injury. 1974;6(2):180–4. Mackay D, Wood L, Rangan A. The treatment of isolated ulnar fractures in adults: a systematic review. Injury. 2000;31(8):565–70. Markolf KL, Lamey D, Yang S, Meals R, Hotchkiss R. Radioulnar load-sharing in the forearm. A study in cadavera J Bone Joint Surg Am. 1998;80(6):879–88. Ostermann PA, Ekkernkamp A, Henry SL, Muhr G. Bracing of stable shaft fractures of the ulna. J Orthop Trauma. 1994;8(3):245–8. Pollock FH, Pankovich AM, Prieto JJ, Lorenz M. The isolated fracture of the ulnar shaft. Treatment without immobilization J Bone Joint Surg Am. 1983;65(3):339–42. Sarmiento A. Treatment of ulnar fractures by functional bracing. J Bone Joint Surg Am. 1976;58(8):1104–7. Sarmiento A. Isolated ulnar shaft fractures treated with functional braces. Journal of Orthopaedic Trauma. 1998;12(6):420–3.