Carlos Pinho Vaz1, Rosa Branca Ferreira1, Joao Silva1, Isabel Barbosa2, Susana Roncon2, Alzira Carvalhais2, A. Martinho3, Fernando Campilho4, Antonio Campos5
1Bone Marrow Transplant Unit, Instituto Português de Oncologia Porto, Porto, Portugal
2Imuno-Hemoterapia, instituto Portugues Oncologia, Porto, Portugal
3Centro de Histocompatibilidade do Centro, Coimbra.
4Serviço de Transplantação de Medula Ossea, Instituto Portugues Oncologia, Porto, Portugal
5Serviço de Transplantação Medula Ossea, instituto Portugues Oncologia, Porto, Portugal
Tóm tắt
Tóm tắt
Các chế độ điều trị giảm cường độ (RIC) ngày càng được sử dụng nhiều cho ghép tế bào gốc huyết học đồng loại (HSCT) trong những năm gần đây cho bệnh lymphoma nang (FL) và bệnh bạch cầu lymphocytic mãn tính (CLL). Nguy cơ thấp về độc tính liên quan đến ghép mà RIC mang lại giúp ghép đồng loại trở nên khả thi cho các bệnh nhân (pt) có bệnh lý huyết học kháng trị với liệu pháp thông thường và/hoặc trong tình trạng y tế kém, trong khi vẫn duy trì được tác dụng ghép chống khối u (GVT) giả thuyết. Từ tháng 5 năm 1999 đến tháng 1 năm 2007, 31 người nhận đã được nghiên cứu. Hai mươi hai bệnh nhân (71%) có FL: 14pt CR2; 4pt PR; 2pt tái phát kháng thuốc; 1pt thất bại ghép; 1pt bệnh tiến triển và 9pt có CLL ở mức PR, đã trải qua ghép HSCT đồng loại từ những người hiến tặng (31) cùng HLA, sau khi điều trị bằng fludarabine 30 mg/m2/ngày iv × 5 + busulfan 4 mg/Kg/ngày × 2 ± globulin kháng T lymphocyte (10 mgKg/ngày) × 4 hoặc fludarabine 30 mg/m2/ngày iv × 5 + cyclophosphamide (1g/m2/ngày) × 3 + alentuzumab 20mg/ngày × 5 (bệnh nhân thất bại ghép). Nguồn tế bào gốc là tế bào tiền thân máu ngoại vi không được xử lý. Số lượng trung vị các tế bào CD34+ được truyền vào: 6,0 × 106/Kg (3,3–12,0). CsA 3 mg/kg/ngày được cho từ ngày-1 đến ngày +90 rồi từ từ giảm liều, kết hợp với Micophenolate mofetil từ d0 đến d+84.
Kết quả: Trong 31 bệnh nhân có thể đánh giá, thời gian hồi phục huyết học trung vị có tỷ lệ bạch cầu trung tính ≥0.5×109/L là 13 ngày (3–37+) và tiểu cầu ≥20 × 109/L là 11 ngày (9–105+). Nhu cầu truyền máu: trung vị: 4 đơn vị RBC và 2 truyền tiểu cầu cho mỗi bệnh nhân. Ngày xuất viện trung vị: ngày 15. Bệnh lý tắc nghẽn tĩnh mạch gan và viêm niêm mạc nặng không xảy ra. Phân tích chimerism (ngày +28) cho thấy sự ghép của người hiến tặng trong tất cả các bệnh nhân - hỗn hợp trong 5 bệnh nhân và đầy đủ trong 26 bệnh nhân (đầy đủ trong bệnh nhân thất bại ghép sau khi ghép lần hai). 36±9,2% bệnh nhân phát triển aGvHD lâm sàng độ 2–4 và 68,9±10,8% phát triển cGvHD. Bốn bệnh nhân có diễn biến bệnh tái phát hoặc tiến triển. Tử vong không liên quan đến tái phát xảy ra ở 3 bệnh nhân có tình trạng hoạt động thấp và bệnh kháng hóa trị. Tại thời điểm 3,6 năm, tỷ lệ sống sót toàn bộ (OS) trung vị là 85,2±6,9%. Hai mươi tám bệnh nhân còn sống với thời gian theo dõi trung vị là 3,6 năm. Tỷ lệ sống không tiến triển (PFS) ở 3 năm là 84,1±7,1%. Nhằm kích thích tác dụng GvT, một bệnh nhân có bệnh tiến triển, không có GvHD, đã được chỉ định nhận truyền lymphocyte từ người hiến tặng (DLI) theo định kỳ đạt được tình trạng bệnh ổn định. Những kết quả này cho thấy chế độ RIC được dung nạp tốt, có nguy cơ tử vong liên quan đến ghép thấp và có khả năng đảm bảo sự ghép ổn định. RIC đang trở thành phương pháp tiêu chuẩn trong HSCT đồng loại cho FL/CLL và nguy cơ tiến triển bệnh muộn có thể được điều chỉnh với tác dụng GvT liên quan đến DLI sau đó.