Theo dõi định lượng sự biểu hiện của kháng nguyên khối u Wilms 1 trong việc dự đoán tái phát sau cấy ghép tế bào gốc huyết học đồng loại ở bệnh nhân ung thư máu cấp tính và hội chứng loạn sản tủy

Blood - Tập 122 - Trang 2075 - 2013
Ryotaro Nakamura1, Anna Israyelyan2, Leanne Goldstein3, Weimin Tsai4, Lia Aquino5, Stephen J. Forman6, Don Diamond7
1Hematology and Hematopoietic Cell Transplantation, City of Hope National Medical Center, Duarte, CA, USA
2City of Hope National Medical Center, Duarte, CA, USA
3Department of Information Science, City of Hope National Medical Center, Duarte, CA, USA
4Department of Hematology/HCT, City of Hope, Duarte, CA, USA
5Division of Biostatistics, City of Hope, Duarte, CA, USA
6Hematology and Hematopoietic Cell Transplantation, City of Hope, Duarte, CA, USA
7Division of Translational Vaccine Research, City of Hope, Beckman Research Institute, Duarte, CA, USA

Tóm tắt

Tóm tắt Tái phát là nguyên nhân chính dẫn đến thất bại trong điều trị sau khi cấy ghép tế bào gốc huyết học đồng loại (HCT) đối với bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu và hội chứng loạn sản tủy (MDS). Để cải thiện kết quả cho bệnh nhân bạch cầu sau HCT đồng loại, cần phải xác định các dấu hiệu tin cậy để dự đoán tái phát sắp xảy ra. Kháng nguyên khối u Wilms (WT1) được biểu hiện quá mức ở phần lớn bệnh nhân bạch cầu và MDS, và đang được xem xét như một dấu hiệu chẩn đoán phổ quát cho bệnh còn lại tối thiểu (MRD), đặc biệt là khi không có sự trao đổi nhiễm sắc thể nào có tần suất liên quan gần như vậy với bệnh bạch cầu như WT1. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã đánh giá triển khai giá trị tiên đoán của việc theo dõi MRD thông qua qRT-PCR cho các bản sao WT1. Mức độ bản sao WT1 trong các tế bào đơn nhân máu ngoại vi (PBMC) được đo bằng cách sử dụng SYBR-Green qRT-PCR trên thiết bị ABI7300 (Applied Biosystems, Carlsbad, CA), và kết quả được biểu thị dưới dạng tỷ lệ bản sao WT1/c-ABL được chuẩn hóa bằng 104 (tỷ lệ WT1: WT1/c-ABLx104). Mẫu PBMC được thu thập hàng tháng trong 6 tháng sau HCT, sau đó theo lịch hàng tháng luân phiên cho đến 3 năm sau HCT. Bệnh nhân trên 18 tuổi với chẩn đoán xác định MDS dưới 20% tế bào bạch cầu non, bệnh bạch cầu cấp tính myeloid (AML)/bạch cầu cấp tính lymphoblastic (ALL) trong đợt tăng trưởng đầu tiên hay thứ hai, và bệnh bạch cầu mạn tính myeloid (CML) trong giai đoạn mãn tính đang tiến hành HCT được đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu. Tổng cộng 83 bệnh nhân (độ tuổi trung bình: 54, khoảng: 19-74) với AML (n=39), ALL (n=24), MDS (n=17) hoặc CML (n=3) đã nhận HCT đồng loại sau khi điều trị giảm liều (n=39) hoặc điều trị cường độ giảm (n=44). Nguồn tặng cho là từ người thân (n=33), người không liên quan (n=50), hoặc máu dây rốn (n=2). Năm mươi mốt bệnh nhân được coi là có nguy cơ thấp (AML/ALL trong CR1, CML trong giai đoạn mãn tính thứ nhất, hoặc các kiểu MDS-RA/RARS) trong khi 32 bệnh nhân còn lại được coi là có nguy cơ cao. Trong số 83 bệnh nhân, mười sáu người đã tái phát với thời gian trung bình là 238 ngày sau HCT (khoảng: 76-747). Tỷ lệ WT1 tối thiểu mà cho thấy độ đặc hiệu 100% trong việc dự đoán tái phát là 50 (CI chính xác nhị thức 95%: 92.5-100%), vì không có bệnh nhân nào không tái phát vượt qua mức này. Trong số 16 bệnh nhân tái phát, 12 người đã vượt qua tỷ lệ WT1 50, cung cấp độ nhạy cảm 75% (CI chính xác nhị thức 95%: 48-93%). Giá trị dự đoán dương (PPV) và giá trị dự đoán âm (NPV) cho tỷ lệ WT1 50 lần lượt là 100% và 94.4% (Bảng 1). Có trung bình 63 ngày (SD=29.3) từ lúc vượt qua tỷ lệ WT1 50 đến tái phát huyết học cho 12 bệnh nhân đã tái phát. Vì các mẫu PBMC từ những người hiến tặng khỏe mạnh liên tục cho thấy tỷ lệ WT1 <10, chúng tôi cũng đã kiểm tra các tỷ lệ cắt khác nhau của WT1 (10 đến 50) để xác định các đặc điểm hiệu suất của chúng (Bảng 1). So với tỷ lệ WT1 50, tỷ lệ cắt ở 20 cho thấy sự tăng độ nhạy (87.5%) trong việc dự đoán tái phát và thời gian đến tái phát (78 ngày), trong khi độ đặc hiệu và PPV giảm xuống còn 85% và 58.3%, tương ứng. Hiệu suất của tỷ lệ cắt ở 20 được cải thiện về PPV (69%) và thời gian đến tái phát (85 ngày) trong một phân nhóm bệnh nhân có bệnh nguy cơ cao trong khi duy trì độ nhạy và độ đặc hiệu tốt trên 80%. Phân tích đơn biến cho thấy các tỷ lệ WT1 (như một biến liên tục), vượt qua tỷ lệ WT1 20 (như một biến theo thời gian), bệnh nguy cơ cao, và tuổi người hiến tặng có liên quan đáng kể đến tái phát. Trong phân tích đa biến, việc vượt qua tỷ lệ WT1 20 vẫn là yếu tố duy nhất có ý nghĩa dự đoán tái phát (HR 56.9 [18-189], p<0.0001). Tóm lại, dữ liệu của chúng tôi cho thấy đo lường định lượng các bản sao WT1 là dấu hiệu tin cậy để đánh giá MRD sau HCT cho bệnh nhân bạch cầu, và việc theo dõi thời gian thực của nó cung cấp cơ hội 2-3 tháng để giới thiệu các can thiệp y tế/miễn dịch trước khi tái phát huyết học rõ ràng.

Từ khóa