Áp dụng quyết định thông tin và chia sẻ vào thực tiễn

Health Expectations - Tập 9 Số 4 - Trang 321-332 - 2006
Angela Towle1, William Godolphin2, Garry D. Grams3, Amanda K. LaMarre4
1Department of Medicine & Undergraduate Dean's Office, Faculty of Medicine and Division of Health Care Communication, College of Health Disciplines, The University of British Columbia, Vancouver, BC, Canada.
2Professor, Department of Pathology & Laboratory Medicine, Faculty of Medicine and Division of Health Care Communication, College of Health Disciplines, The University of British Columbia
3Assistant Professor, Department of Family Practice, Faculty of Medicine, The University of British Columbia
4Masters Student, Department of Psychology, The University of British Columbia, Vancouver, BC, Canada

Tóm tắt

Tóm tắt

Mục tiêu  Nghiên cứu thực hành, trải nghiệm và quan điểm của các bác sĩ gia đình có động lực và được đào tạo khi họ cố gắng thực hiện quyết định thông tin và chia sẻ (ISDM) trong thực hành thông thường và để xác định và hiểu những rào cản mà họ gặp phải.

Châu nền  Sự tham gia của bệnh nhân trong quyết định về chăm sóc sức khỏe của họ đã là tâm điểm của nhiều hoạt động học thuật. Mặc dù có nhiều công việc lý thuyết và thực nghiệm quan trọng đã được thực hiện, nhưng ISDM hiếm khi xảy ra. Thái độ của bác sĩ và thiếu đào tạo được xác định là những rào cản.

Thiết kế  Phân tích định tính các bản sao của các cuộc tham vấn và các cuộc phỏng vấn nhóm thông tin chính.

Địa điểm và người tham gia  Sáu bác sĩ gia đình đã được đào tạo về các năng lực ISDM. Các băng ghi âm của các cuộc tham vấn văn phòng được thực hiện trước và sau đào tạo. Các bản sao của các cuộc tham vấn đã được xem xét để xác định các dấu hiệu hành vi liên quan đến từng năng lực và phạm vi thể hiện các năng lực. Các bác sĩ đã tham gia các cuộc phỏng vấn nhóm vào cuối nghiên cứu để khám phá trải nghiệm của ISDM.

Kết quả  Các bác sĩ thích mô hình ISDM và nghĩ rằng họ nên áp dụng nó trong thực tế. Bằng chứng từ các bản sao cho thấy họ có khả năng nêu ra những mối quan tâm, ý tưởng và kỳ vọng (dù không phải về quản lý) và đồng ý về một kế hoạch hành động. Họ không nêu rõ sở thích về vai trò hoặc thông tin. Họ đôi khi đưa ra lựa chọn. Họ gặp khó khăn trong việc đạt được sự thể hiện đầy đủ của bất kỳ năng lực nào và tích hợp ISDM vào kịch bản của cuộc phỏng vấn y tế. Nghiên cứu cũng đã xác định nhiều rào cản cụ thể theo năng lực.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

Coulter A, 2002, The Autonomous Patient. Ending Paternalism in Medical Care

Fenwick P, 1996, Informed consent – should Bolam be rejected, Medical Law, 16, 215

Department of Health, 1999, Patient and Public Involvement in the New NHS

General Medical Council, 2001, Good Medical Practice

10.1016/S0738-3991(03)00077-6

10.1001/jama.282.24.2313

10.1016/S0277-9536(99)00376-7

10.1136/bmj.325.7366.691

10.1136/qhc.12.2.93

Elwyn G, 1999, Shared decision‐making in primary care: the neglected second half of the consultation, British Journal of General Practice, 49, 477

10.1046/j.1365-2923.2002.01102.x

10.1136/bmj.319.7212.766

Elwyn G, 2000, Shared decision‐making and the concept of equipoise: the competences of involving patients in healthcare choices, British Journal of General Practice, 50, 892

10.1016/j.pec.2005.06.010

10.1016/S0738-3991(01)00198-7

10.1136/bmj.319.7212.753

10.1111/j.1365-2753.2004.00502.x

Edwards A, 2005, Shared decision making and risk communication in practice: a qualitative study of GPs’ experiences, British Journal of General Practice, 55, 6

Gilchrist VJ, 1999, Doing Qualitative Research, 71

10.7326/0003-4819-98-2-228

10.1186/1472-6947-2-2

10.1001/jama.292.20.2516

10.1136/bmj.327.7417.692

10.1016/j.pec.2004.12.002

10.1016/0277-9536(95)00061-B

Waitzkin H, 1984, Information giving in medical care, Journal of the American Medical Association, 252, 2441