Prolactinomas ở thanh thiếu niên: Giảm mật độ xương liên tục sau 2 năm mức prolactin bình thường hóa

Clinical Endocrinology - Tập 52 Số 3 - Trang 319-327 - 2000
Annamaria Colao1, Carolina Di Somma1, Sandro Loche2, Antonella Di Sarno1, Michele Klain3, Rosario Pivonello1, Marco Pietrosante1, Marco Salvatore3, Gaetano Lombardi1
1Department of Molecular & Clinical Endocrinology and Oncology, ‘Federico II’ University, Naples, Italy
2Division of Paediatric Endocrinology, Ospedale per le Microcitemie, Cagliari, Italy
3CNR Biomorphological and Functional Sciences, ‘Federico II’ University Naples, Italy

Tóm tắt

MỤC TIÊU

Đánh giá ảnh hưởng của hyperprolactinaemia và việc điều trị bằng thuốc kích thích dopamin đối với khối lượng xương và quá trình tái tạo xương ở bệnh nhân thanh thiếu niên so với người lớn.

BỆNH NHÂN

Bốn mươi bệnh nhân mắc hyperprolactinaemia (20 bệnh nhân bệnh khởi phát trong thời kỳ thanh thiếu niên và 20 bệnh nhân khởi phát trong thời kỳ trưởng thành) và 40 đối chứng khỏe mạnh.

THIẾT KẾ

Nghiên cứu cắt ngang mở (trên bệnh nhân và đối chứng) và nghiên cứu dọc mở (trên bệnh nhân).

ĐO LƯỜNG

Mật độ khoáng xương (BMD) ở cột sống thắt lưng và cổ xương đùi, nồng độ osteocalcin (OC) trong huyết thanh và nồng độ peptid liên kết chéo N-telopeptides của collagen loại 1 (Ntx) trong nước tiểu được đánh giá ở bệnh nhân và đối chứng. Ở 40 bệnh nhân, khối lượng xương và quá trình tái tạo được đánh giá lại sau 12 và 24 tháng điều trị bằng bromocriptine (BRC, liều 2.5–10 mg mỗi ngày), quinagolide (CV, liều 0.075–0.3 mg mỗi ngày) hoặc cabergoline (CAB, liều 0.5–1.5 mg mỗi tuần).

KẾT QUẢ

Nghiên cứu cắt ngang: Giá trị BMD thấp hơn đáng kể ở bệnh nhân hyperprolactinaemic so với đối chứng, cả ở cột sống thắt lưng (0.81 ± 0.01 so với. 1.010 ± 0.01 g/cm2; P < 0.001) và cổ xương đùi (0.71 ± 0.01 so với. 0.873 ± 0.03 g/cm2; P < 0.001). Ba mươi hai bệnh nhân (80%) có tình trạng loãng xương và/hoặc thiếu xương tại một hoặc cả hai vị trí xương. Một mối tương quan nghịch đáng kể được tìm thấy giữa giá trị điểm T đo ở cột sống thắt lưng và cổ xương đùi với thời gian ước tính của bệnh. BMD thấp hơn đáng kể ở bệnh nhân thanh thiếu niên so với bệnh nhân trưởng thành cả ở cột sống thắt lưng (điểm T, -2.4 ± 0.1 so với. -1.4 ± 0.3, P < 0.01) và cổ xương đùi (điểm T, -2.1 ± 0.05 so với. -1.5 ± 0.2, P < 0.05). Tương tự, nồng độ OC trong huyết thanh thấp hơn đáng kể (2.0 ± 0.11 so với. 9.1 ± 2.4 μg/l, P < 0.01) trong khi nồng độ Ntx cao hơn đáng kể ở bệnh nhân so với đối chứng (129.2 ± 1.7 so với. 80.7 ± 2.9 nmol Bone collagen equivalent (BCE)/mmol creatinine; P < 0.001). Một mối tương quan nghịch đáng kể cũng được tìm thấy giữa nồng độ prolactin (PRL) và nồng độ OC, cũng như giữa thời gian bệnh và các giá trị T score ở cột sống thắt lưng và cổ xương đùi. Đồng thời, một mối tương quan thuận đáng kể cũng được tìm thấy giữa nồng độ Ntx và các nồng độ PRL và thời gian bệnh. Nghiên cứu dọc: Nồng độ PRL trong huyết thanh được bình thường hóa ở tất cả bệnh nhân sau 6–12 tháng điều trị. Sự gia tăng đáng kể của nồng độ OC huyết thanh cùng với sự giảm đáng kể nồng độ Ntx được quan sát thấy sau 12 và 24 tháng điều trị (P < 0.01). Nồng độ canxi, phốt pho, creatinine trong nước tiểu và huyết thanh, cũng như nồng độ phosphatase kiềm huyết thanh và hormone tuyến cận giáp không thay đổi trong suốt thời gian nghiên cứu ở tất cả bệnh nhân. Sau 12 tháng điều trị, nồng độ OC và Ntx đã trở lại bình thường. Một sự gia tăng nhẹ nhưng không đáng kể của giá trị BMD được ghi nhận sau 12 và 24 tháng điều trị. Sau 12 tháng điều trị, tỷ lệ gia tăng giá trị BMD trong toàn bộ nhóm bệnh nhân là 1.13 ± 0.6% ở cột sống thắt lưng và 1.2 ± 0.4% ở mức cổ xương đùi, trong khi sau 24 tháng, đạt 2.8 ± 0.7% ở cột sống thắt lưng và 3.5 ± 0.7% ở mức cổ xương đùi. Sau 12 tháng điều trị, tỷ lệ gia tăng giá trị BMD là 0.7 ± 0.2% và 1.6 ± 1.1% ở cột sống thắt lưng và 0.9 ± 0.5% và 1.6 ± 0.5% ở mức cổ xương đùi ở bệnh nhân thanh thiếu niên và người lớn, trong khi sau 24 tháng, đạt 2.1 ± 0.8% và 3.4 ± 1.3% ở cột sống thắt lưng và 2.6 ± 0.8% và 4.4 ± 1.0% ở mức cổ xương đùi trên bệnh nhân thanh thiếu niên và người lớn.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1210/jc.83.5.1615

Artese R., 1998, Pituitary tumors in adolescent patients, Neurological Research, 20, 415

10.1210/jc.75.3.692

10.1210/jcem-42-1-132

10.1210/jcem-73-3-555

10.1210/jc.74.3.577

Cann C.E., 1984, Decreased spinal mineral content in amenorrheic women, Journal of American Medical Association, 251, 626, 10.1001/jama.1984.03340290040017

Carrol P.V., 1998, Growth hormone deficiency in adulthood and the effects of growth hormone replacement: a review, Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism, 83, 382, 10.1210/jcem.83.2.4594

10.1210/jc.82.11.3574

10.1016/S0140-6736(98)03356-X

10.3109/07853899809002486

10.1210/jc.83.8.2777

10.1210/jc.84.6.1919

10.1210/er.16.1.63

10.1210/jc.83.3.807

10.1159/000191333

10.1210/jcem-70-5-1330

10.7326/0003-4819-104-6-777

10.7326/0003-4819-110-7-526

10.7326/0003-4819-105-4-543

10.1016/S0140-6736(94)90181-3

10.1210/jc.78.3.669

10.1111/j.1365-2265.1989.tb03734.x

10.7326/0003-4819-111-5-355

10.1056/NEJM198012253032605

Matkovic V., 1990, Factors which influence peak bone mass formation: a steady calcium balance and the inheritance of bone mass in adolescent females, American Journal of Clinical Nutrition, 52, 878, 10.1093/ajcn/52.5.878

10.1210/jc.81.6.2013

10.1002/jbmr.5650081010

10.1210/jc.75.1.87

10.1159/000126575

10.1172/JCI113125

10.1210/jcem-56-6-1120

10.1210/jcem-64-5-1021

10.1016/0002-9343(83)90878-1

10.1210/edrv.19.2.0329

10.1001/archpedi.1993.02160340043011

10.1210/jc.75.4.1060

10.1210/jcem-72-5-1136

10.1210/jc.75.3.690

10.1016/0002-9378(85)90338-2

10.1056/NEJM199410063311403