Quản lý trước sinh và trong thời kỳ chuyển dạ về bệnh thiếu fibrinogen bẩm sinh

British Journal of Haematology - Tập 109 Số 2 - Trang 364-366 - 2000
Takao Kobayashi1, Naohiro Kanayama1, Naoki Tokunaga1, Toshihiko Asahina1, Toshihiko Terao1
1Department of Obstetrics and Gynaecology, Hamamatsu University School of Medicine, 3600 Handa‐cho, 
Hamamatsu City, Shizuoka 431‐3192 Japan

Tóm tắt

Chúng tôi đã ghi nhận ba trường hợp và bốn ca sinh thành công với bệnh thiếu fibrinogen bẩm sinh và đề xuất các hướng dẫn sau cho việc quản lý trước sinh và trong thời kỳ chuyển dạ: (i) chảy máu sinh dục thường bắt đầu từ tuần thứ 5 của thai kỳ và sảy thai tự nhiên thường xảy ra vào tuần thứ 6–8 của thai kỳ nếu không có truyền fibrinogen; (ii) mức fibrinogen phải tối thiểu là 0,60 g/l và nếu có thể, cao hơn 1,0 g/l trong suốt thai kỳ; (iii) lượng fibrinogen cần thiết tăng lên khi thai kỳ tiến triển và khi có chuyển dạ sinh non xảy ra; (iv) mức fibrinogen dưới sự truyền liên tục fibrinogen trong quá trình chuyển dạ phải đạt tối thiểu 1,5 g/l và nếu có thể, cao hơn 2,0 g/l để ngăn ngừa bong nhau; (v) thời kỳ hậu sản thường thuận lợi với liều truyền fibrinogen giảm.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1159/000208721

10.1016/0028-2243(85)90046-2

10.1016/0002-9378(85)90354-0

10.1159/000291892

Liedholm P., 1975, Fibrinolytic activity of the rat ovum, appearance during tubal passage and disappearance at implantation, International Journal of Fertility, 20, 24

Matsuno K., 1977, A case of congenital afibrinogenemia with abortion, intracranial haemorrhage and peritonitis, Japanese Journal of Clinical Haematology, 18, 1438

Rabe F., 1920, Über Faserstoffmangel im Blut bei einem Falle von Haemophilie, Deutsches Archives Klinische Medizin, 132, 240

10.1111/j.1471-0528.1991.tb13464.x