Hoạt Tính Tiền Lâm Sàng của LBH589 Một Mình hoặc Kết Hợp Với Hóa Trị Trong Mô Hình Chuột Dị Giống Của Bệnh Bạch Cầu Lympho Cấp Ở Người

Blood - Tập 118 - Trang 1520 - 2011
Xabier Agirre1, Amaia Vilas-Zornoza1, Gloria Abizanda1, Cristina Moreno2, Victor Segura3, Alba De Martino Rodriguez4, Edurne San José-Enériz1, Estíbaliz Miranda1, José Ignacio Martín-Subero5, Leire Garate6, María J. Blanco-Prieto7, José A. García de Jalón4, Jose J. Rifon6, Jose A Martinez-Climent1, Juan Cruz Cigudosa8, José Román-Gómez9, Maria José Calasanz10, Josep-Maria Ribera11, Felipe Prosper6
1Oncology Division, Foundation for Applied Medical Research, University of Navarra., Pamplona, Spain
2Department of Immunology, Clínica Universidad de Navarra, University of Navarra, Pamplona, Spain
3Bioinformatics, Center for Applied Medical Research, University of Navarra, Pamplona, Spain
4Department of Animal Pathology, Veterinary Faculty, University of Zaragoza, Zaragoza, Spain
5Department of Anatomic Pathology, Pharmacology and Microbiology, University of Barcelona, Barcelona
6Hematology Service, Clínica Universidad de Navarra, University of Navarra, Pamplona, Spain
7Department of Pharmacy and Pharmaceutical Technology, School of Pharmacy, University of Navarra
8Cytogenetics Unit, CNIO, Madrid, Spain
9Hematology Department, Reina Sofia Hospital. Maimonides Institute for Biomedical Research. Cordoba
10Department of Genetics, University of Navarra, Pamplona, Spain
11Hematology Department, Hospital Germans Trias i Pujol, Badalona, Spain

Tóm tắt

Tóm tắt Deacetylases histone (HDACs) đã được xác định là các mục tiêu điều trị do chức năng điều chỉnh của chúng trong cấu trúc và tổ chức nhiễm sắc. Ở đây, chúng tôi đã phân tích hiệu ứng điều trị của LBH589 hoặc panobinostat, một chất ức chế HDAC loại I-II, trong bệnh bạch cầu lympho cấp (ALL). Trong ống nghiệm, LBH589 đã gây ra sự gia tăng thiếu hụt tế bào chết theo liều rõ rệt và sự ức chế tế bào tăng trưởng đáng kể, điều này liên quan đến sự tăng cường acetyl hóa histone H3 và H4. Trong khi tế bào ALL chết được phát hiện trong khoảng thời gian từ 12 đến 24 giờ sau khi điều trị bằng LBH589, sự thay đổi trong acetyl hóa H3 và H4 được phát hiện sớm nhất là sau 2 giờ. Sự phosphoryl hóa H2AX, như một dấu hiệu sớm của DNA bị tổn thương, được phát hiện trong khoảng thời gian 12 đến 24 giờ sau khi điều trị in vitro bằng LBH589. Những kết quả này cho thấy acetyl hóa H3 và H4 xảy ra trước khi DNA bị tổn thương và sự khởi phát tế bào chết cho thấy rằng ức chế HDAC có thể là nguyên nhân ít nhất một phần cho sự chết tế bào và sự ức chế tế bào tăng trưởng do LBH589 gây ra. Hoạt động in vivo của LBH589 được xem xét ban đầu trong mô hình chuột ALL dưới da. Các dòng tế bào bạch cầu ALL TOM-1 và MOLT-4 được cấy (1×10^6 tế bào mỗi động vật) dưới da vào hông trái của chuột cái BALB/cA-Rag2−/−γc−/− 6 tuần tuổi. Các dòng tế bào này phát triển thành một khối u tăng trưởng nhanh. Việc điều trị bằng 5mg/kg LBH589 được bắt đầu 24 giờ sau khi tiêm tế bào bạch cầu, bao gồm 3 chu kỳ với 5 ngày liên tiếp dùng LBH589 có 2 ngày nghỉ giữa các chu kỳ và các động vật được theo dõi trong 24 ngày. Sự ức chế tăng trưởng khối u đáng kể đã được chứng minh ở những động vật điều trị bằng LBH589 so với nhóm chứng (P <0.01). Sự ức chế tăng trưởng tế bào bạch cầu được liên kết với việc tăng cường nồng độ acetylated H3 và H4 và tăng cường phosphorylated H2AX trong các tế bào bạch cầu thu được sau khi hiến xác động vật. Những kết quả này cho thấy LBH589 có tác dụng chống bạch cầu mạnh mẽ không chỉ in vitro mà còn in vivo. Bằng cách sử dụng các tế bào ALL sơ cấp, một mô hình xenograft của bệnh bạch cầu người trên chuột BALB/c-RAG2−/−γc−/− đã được thiết lập, cho phép các tế bào được cấy ghép được duy trì liên tục qua nhiều thế hệ chuột. Tổng cộng 10 triệu tế bào từ một bệnh nhân T-ALL (ALL-T1) và một bệnh nhân B-ALL (ALL-B1) đã được tiêm tĩnh mạch vào tĩnh mạch đuôi của chuột cái BALB/cA-Rag2−/−γc−/− 6 tuần tuổi. Kinetics của việc cấy ghép tế bào bạch cầu được theo dõi trong huyết thanh và tủy xương qua định kiểu trong khi sự xâm nhập của các cơ quan được phân tích bằng phương pháp miễn dịch hóa mô. Không có sự khác biệt đáng kể nào trong bộ gen, methylome hay transcriptome giữa mẫu gốc và các mẫu thu được qua nhiều thế hệ trên chuột. Để xác định hiệu quả của LBH589 một mình hoặc kết hợp với các loại thuốc hiện đang được sử dụng điều trị ALL, các chuột BALB/cA-RAG2−/−γc−/− được ghép tế bào ALL-T1 và ALL-B1 đã được điều trị với LBH589, Vincristine và Dexamethasone hoặc kết hợp LBH589 với Vincristine và Dexamethasone. Việc điều trị được bắt đầu khi có thể phát hiện bệnh trong huyết thanh bằng FACS (24 giờ sau khi tiêm tế bào cho ALL-T1 và giữa ngày 17 đến 21 sau khi tiêm cho ALL-B1). LBH589 được tiêm trong bụng vào các ngày 1–5, 8–12 và 15–19, Vincristine được tiêm tĩnh mạch vào các ngày 1, 8 và 21 và Dexamethasone được tiêm hàng ngày cho đến ngày 21 trong bụng và sự sống còn được phân tích. Việc điều trị cho chuột mắc tế bào T hoặc B-ALL với LBH589 đã làm tăng acetyl hóa H3 và H4 trong cơ thể, điều này đi kèm với việc kéo dài sự sống của chuột được điều trị bằng LBH589 so với những chuột nhận Vincristine và Dexamethasone. Đáng chú ý, hiệu quả điều trị của LBH589 đã được tăng cường đáng kế khi kết hợp với Vincristine và Dexamethasone. Các kết quả của chúng tôi chứng minh hoạt động điều trị của LBH589 kết hợp với hóa trị chuẩn trong các mô hình tiền lâm sàng của ALL và gợi ý rằng sự kết hợp này có thể có giá trị lâm sàng trong điều trị bệnh nhân bị ALL. Công bố: Không có xung đột lợi ích nào liên quan để công bố.

Từ khóa

#LBH589 #HDACs #ALL #hóa trị #tế bào ác tính #mô hình chuột #acetyl hóa #phosphoryl hóa