Các biến thể đa hình trong gen myostatin ở cừu (MSTN) và mối liên hệ của chúng với các đặc điểm tăng trưởng và trọng lượng thịt ở cừu New Zealand Romney

Animal Genetics - Tập 41 Số 1 - Trang 64-72 - 2010
Jon G. H. Hickford1, Rachel Forrest2, Huitong Zhou1, Qian Fang1, Jin Han1, Chris Frampton3, A. L. Horrell1
1Agriculture and Life Sciences Division, P.O. Box 84, Lincoln University, Canterbury 7647, New Zealand.
2Faculty of Health and Sport Sciences, Eastern Institute of Technology, Private Bag 1201, Napier, New Zealand
3Christchurch School of Medicine and Health Sciences, University of Otago, P.O. Box 4345, Christchurch 8140, New Zealand.

Tóm tắt

Tóm tắt

Myostatin là một yếu tố điều tiết quá trình tạo cơ và đã được xác nhận có liên quan đến việc điều chỉnh mức độ béo phì cũng như kiểm soát cấu trúc và chức năng của gân. Phân tích Đa hình Bố trí Chuỗi Polymerase Một Sợi (PCR‐SSCP) của intron‐1 đã được sử dụng để xác định năm biến thể (được ký hiệu là A–E) của gen myostatin (MSTN). Tác động của sự biến đổi gen này đối với các đặc điểm tăng trưởng và trọng lượng thịt đã được nghiên cứu trên 517 con cừu đực Romney từ 17 dòng bố, được sinh ra tại một trang trại ở Đảo Nam, New Zealand. Các mô hình đa biến tác động hỗn hợp tuyến tính chung đã chỉ ra rằng sự hiện diện của alen A trong kiểu gen của một con cừu liên quan đến việc giảm sản lượng thịt nạc ở chân, lưng và tổng thể, trong khi sự hiện diện của alen B lại liên quan đến việc tăng sản lượng lưng và tỷ lệ sản lượng lưng (sản lượng lưng chia cho tổng sản lượng được biểu thị dưới dạng phần trăm). Tác động của số lượng bản sao alen hiện có cũng đã được nghiên cứu, và kết quả cho thấy sự vắng mặt của A, hoặc sự hiện diện của hai bản sao của B, liên quan đến việc tăng sản lượng trung bình ở chân, sản lượng lưng và tổng sản lượng. Hai bản sao của B cũng liên quan đến việc giảm tỷ lệ sản lượng vai, trong khi hai bản sao của A lại liên quan đến việc giảm tỷ lệ sản lượng lưng. Không phát hiện được mối liên hệ với alen C. Không phát hiện được mối liên hệ giữa sự biến đổi của MSTN với trọng lượng khi sinh, trọng lượng cai sữa, tốc độ tăng trưởng trước khi cai sữa, độ tuổi khi vắt và trọng lượng thịt nóng (H‐W). Những kết quả này cho thấy rằng sự biến đổi trong MSTN ở cừu có liên quan đến việc sản xuất thịt, nhưng không có liên quan đến trọng lượng khi sinh hoặc tỷ lệ tăng trưởng ở cừu Romney New Zealand.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.2527/1999.7771686x

10.1038/ng1810

10.1038/ng0997-71

10.1111/j.1365-2052.2008.01734.x

10.1016/j.meatsci.2003.10.015

10.1101/gr.7.9.910

10.1186/1471-2156-8-80

10.1006/bbrc.2002.6500

10.1007/s00335-002-2176-5

10.1073/pnas.94.23.12457

10.1172/JCI0213562

10.1038/387083a0

Meat and Wool New Zealand, 2008, Compendium of New Zealand Farm Production Statistics

10.1073/pnas.0707069105

10.1371/journal.pgen.0030079

OliverW.M.&CartwrightT.C.(1968)Double muscling in cattle: a review of expression genetics and economic implication. Texas Agriculture Experimental Station Animal Science Department Technical Report 12. 58 pp.

10.1016/j.livprodsci.2004.09.003

10.1056/NEJMoa040933

10.1111/j.1365-2052.2007.01623.x

10.2527/2002.8011

10.1007/s003359900843

Varga L., 2003, Mapping Modifiers Affecting Muscularity of the Myostatin Mutant (Mstn Cmpt‐dl1Abc ) Compact Mouse, Genetics, 165, 257, 10.1093/genetics/165.1.257

Wiener P., 2002, Muscle‐related traits in cattle: the role of the myostatin gene in the South Devon breed, Genetics Selection Evolution, 34, 221, 10.1186/1297-9686-34-2-221

10.1016/j.ab.2006.03.042

10.1016/j.mcp.2007.08.004