Kết quả điều trị ở bệnh nhân ung thư bạch cầu lớn B dạng lan tỏa kháng hóa trị và tái phát sớm sau điều trị R-CHOP

Blood - Tập 116 - Trang 1751 - 2010
Felicitas Hitz1, Joseph M. Connors2, Randy D. Gascoyne3, Paul Hoskins4, Alden A. Moccia4, Kerry Joanne Savage4, Laurie H. Sehn5, Tamara Shenkier4, Richard Klasa4
1Medical Oncology, Kantonsspital St. Gallen, St. Gallen, SWITZERLAND
2British Columbia Cancer Agency, Vancouver Clinic, Vancouver, BC, Canada
3Pathology, British Columbia Cancer Agency, Vancouver, BC, Canada
4British Columbia Cancer Agency, Vancouver, BC, Canada
5Dept. of Medical Oncology, British Columbia Cancer Agency, Vancouver, BC, Canada

Tóm tắt

Tóm tắt Việc thêm rituximab vào phác đồ CHOP (R-CHOP) đã cải thiện đáng kể thời gian sống không bệnh tiến triển và tổng tỷ lệ sống của bệnh nhân (pts) bị ung thư bạch cầu lớn B dạng lan tỏa (DLBCL). Tuy nhiên, có 9,5% bệnh nhân mang ung thư lympho kháng R-CHOP (Feugier et al) và 18–27% trải qua tái phát sau đáp ứng ban đầu (thử nghiệm GELA và MINT). Nền tảng: Đánh giá kết quả điều trị ở bệnh nhân có bệnh DLBCL kháng nguyên phát và tái phát sớm (trong vòng 3 tháng sau khi có đáp ứng CR/PR sau khi hoàn thành điều trị R-CHOP). Phương pháp và Bệnh nhân: Cơ sở dữ liệu Ung thư Lympho BCCA đã xác định 1126 bệnh nhân được chẩn đoán DLBCL từ tháng 12 năm 2000 đến tháng 9 năm 2009. Tất cả các độ tuổi và giai đoạn đều được bao gồm và phác đồ điều trị ban đầu là R-CHOP cho tất cả bệnh nhân. Kết quả: Có 166 bệnh nhân (15%) mắc bệnh kháng nguyên phát hoặc tái phát sớm, trong số đó, 93 người trên 70 tuổi và quá yếu để nhận được hơn 2 chu kỳ R-CHOP. Trong số 73 bệnh nhân còn lại, 33 (45%) có bệnh lympho kháng nguyên phát và 40 (55%) tái phát trong vòng 3 tháng đạt được CR/PR. Đặc điểm bệnh nhân (n=73): độ tuổi trung bình 57 tuổi; 68% là nam; giai đoạn I (4%), II (16%), III (19%), IV (60%); PS 0,1 (41%), PS 2–4 (59%); LDH cao (58%); IPI 0 (1%), 1 (15%), 2 (15%), 3 (30%), 4 (35%), 5 (2%). Không có sự khác biệt về đặc điểm lâm sàng giữa bệnh nhân kháng nguyên phát so với bệnh nhân tái phát sớm. Trong số 73 bệnh nhân, 37 (50%) không có bệnh kèm theo nghiêm trọng và có khả năng điều trị với mục đích chữa khỏi bao gồm hóa trị cứu cánh đa tác nhân với kế hoạch tiếp tục điều trị liều cao và ghép tế bào gốc tự thân (ASCT), trong khi 36 bệnh nhân chỉ điều trị giảm nhẹ hoặc chăm sóc an ủi. 10 bệnh nhân đã thực hiện ASCT (3 bệnh nhân kháng nguyên phát, 7 bệnh nhân tái phát sớm). Thời gian sống trung bình cho 73 bệnh nhân là 10 tháng với chỉ 6 bệnh nhân sống mà không có dấu hiệu bệnh (thời gian 14–106 tháng). 5 trong số 6 bệnh nhân này đã tái phát sớm sau CR/PR ban đầu, trong khi chỉ 1 bệnh nhân mắc bệnh kháng nguyên phát. 3 trong số 6 bệnh nhân này đã điều trị cứu cánh mà không có ASCT và 3 người có ASCT. Kết luận: Bệnh kháng hóa trị hoặc tái phát sớm sau R-CHOP có tiên lượng rất kém với chỉ một số ít bệnh nhân sống sót độc lập với cách tiếp cận điều trị dự định. Cần có sự đánh giá sinh học khẩn cấp cho nhóm bệnh nhân này với mục đích xác định nền tảng phân tử của sự kháng trị điều trị. Các tiết lộ: Savage: Roche: Thù lao. Sehn: Roche: Thù lao, Tài trợ Nghiên cứu.

Từ khóa