Một Trăm Năm Sau “Carcinoid”: Dịch Tễ Học và Các Yếu Tố Dự Đoán Tình Trạng Của Các Khối U Thần Kinh Nội Tiết Trong 35,825 Trường Hợp Tại Hoa Kỳ

American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 26 Số 18 - Trang 3063-3072 - 2008
James C. Yao1, Moustapha Hassan1, Alexandria T. Phan1, Cecile G. Dagohoy1, Colleen Leary1, Jeannette E. Mares1, Eddie K. Abdalla1, Jason B. Fleming1, Jean‐Nicolas Vauthey1, Asif Rashid1, Douglas B. Evans1
1From the Departments of Gastrointestinal Medical Oncology, Surgical Oncology, and Pathology, The University of Texas M.D. Anderson Cancer Center, Houston, TX

Tóm tắt

Mục đích

Các khối u thần kinh nội tiết (NETs) được xem là những khối u hiếm gặp và có khả năng sản xuất nhiều loại hormone khác nhau. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã xem xét dịch tễ học và các yếu tố dự đoán tình trạng của các NET, vì một cuộc khảo sát toàn diện về các vấn đề này chưa từng được thực hiện trước đây.

Phương pháp

Chúng tôi đã tìm kiếm dữ liệu từ chương trình Surveillance, Epidemiology, and End Results (SEER) để xác định các trường hợp NET từ năm 1973 đến 2004. Dữ liệu dân số liên quan được sử dụng cho các phân tích về tỷ lệ mắc và tỷ lệ lưu hành.

Kết quả

Chúng tôi đã xác định được 35,618 bệnh nhân mắc NET. Chúng tôi nhận thấy sự gia tăng đáng kể trong tỷ lệ mắc NET đã điều chỉnh theo độ tuổi hàng năm từ năm 1973 (1.09/100,000) tới năm 2004 (5.25/100,000). Sử dụng dữ liệu từ SEER 9, chúng tôi ước tính tỷ lệ lưu hành trong 29 năm giới hạn của NET vào ngày 1 tháng 1 năm 2004 là 9,263 trường hợp. Ngoài ra, tỷ lệ lưu hành trong 29 năm giới hạn ước tính tại Hoa Kỳ vào ngày đó là 103,312 trường hợp (35/100,000). Vị trí khối u nguyên phát phổ biến nhất khác nhau theo chủng tộc, với phổi là phổ biến nhất ở bệnh nhân người da trắng và trực tràng là phổ biến nhất ở bệnh nhân người Á Châu/Đảo Thái Bình Dương, người Mỹ bản địa/Người Alaskan bản địa, và người Mỹ gốc Phi. Thêm vào đó, thời gian sống sót cũng khác nhau theo độ grade mô học. Trong phân tích đa biến ở bệnh nhân có NET phân biệt tốt đến phân biệt vừa, giai đoạn bệnh, vị trí khối u nguyên phát, độ grade mô học, giới tính, chủng tộc, độ tuổi và năm chẩn đoán đều là các yếu tố dự đoán cho kết quả (P < .001).

Kết luận

Chúng tôi đã quan sát thấy tỷ lệ mắc NET được báo cáo gia tăng và thời gian sống sót cũng tăng theo thời gian, cho thấy rằng NET có thể phổ biến hơn so với những gì đã được báo cáo trước đó. Các bác sĩ lâm sàng cần quen thuộc với lịch sử tự nhiên và các mô hình tiến triển của bệnh, những đặc trưng của các khối u này.

Từ khóa

#khối u thần kinh nội tiết #dịch tễ học #yếu tố dự đoán #tỷ lệ mắc #thời gian sống sót

Tài liệu tham khảo

Obendorfer S: Karzinoide tumoren des dunndarms. Frankf Z Pathol 1:425,1907-429,

10.1002/1097-0142(197508)36:2<560::AID-CNCR2820360235>3.0.CO;2-4

10.1002/cncr.11105

10.1053/j.gastro.2007.01.006

10.1245/s10434-007-9566-6

Fritz AG: International Classification of Diseases for Oncology: ICD-O (ed 3). Geneva, Switzerland, World Health Organization, 2000

Surveillance, Epidemiology, and End Results (SEER) Program: SEER*Stat Database: SEER 17 Regs Nov 2006 sub (1973-2004). Bethesda, MD, National Cancer Institute, 2007

10.1111/j.0006-341X.1999.01137.x

10.1191/0962280206sm427oa

10.1002/1097-0142(19920415)69:8<2154::AID-CNCR2820690823>3.0.CO;2-R

Schally A: Oncological applications of somatostatin analogue. Cancer Res 48:6977,1988-6985,

10.1055/s-0029-1211980

10.1016/0305-7372(94)90016-7

10.1056/NEJM199903183401107

10.1080/02841860310010547

10.1016/j.beem.2007.01.006