Nhiệt sinh học không run ở chuột. II. Các phép đo lưu lượng máu bằng vi cầu chỉ ra mô mỡ nâu là vị trí chiếm ưu thế của sự sinh nhiệt do noradrenaline gây ra
Tóm tắt
Lưu lượng tim (CO) và phân phối tỷ lệ (FD) của các vi cầu nhựa được gán nhãn γ (15 ± 5 μm) tiêm vào tâm thất trái được sử dụng để tính lưu lượng máu đến các cơ quan và mô của chuột trắng được an thần với barbital, được thích nghi với nhiệt độ ấm (WA) hoặc lạnh (CA) khi nghỉ ngơi và sau đó trong phản ứng sinh nhiệt tối đa của chúng với noradrenaline (NA) được truyền vào. Lưu lượng đến các khối mô mỡ nâu chính (BAT) đã tăng ở chuột WA từ trung bình 0.81 ml/phút (0.92% của CO) khi nghỉ ngơi lên 13.5 ml/phút (11.4% của CO) trong quá trình sinh nhiệt; nó đã tăng ở chuột CA từ 2.3 ml/phút (2.6% của CO) lên 57.2 ml/phút (33.5% của CO). Lưu lượng đến cơ bắp đã tăng ở chuột WA từ 12.0 ml/phút khi nghỉ ngơi lên 15.1 ml/phút trong quá trình sinh nhiệt; nó đã tăng ở chuột CA từ 9.9 ml/phút lên 14.5 ml/phút. Lưu lượng đến tim và các cơ tham gia vào chuyển động hô hấp cao gấp hai đến năm lần trong quá trình sinh nhiệt. Lưu lượng đến phần lớn các mô và cơ quan khác tăng hoặc giảm dưới 40%. Sự chênh lệch tĩnh mạch động mạch về oxy trong máu [Công thức: xem văn bản] qua mô mỡ nâu giữa bả vai (IBAT) trong quá trình nghỉ ngơi và trong quá trình sinh nhiệt cùng với các phép đo lưu lượng máu cho thấy rằng IBAT chiếm 14% O2 dư thừa mà chuột CA sử dụng trong quá trình sinh nhiệt do NA gây ra. Nếu trong quá trình sinh nhiệt các khối mô mỡ nâu khác có [Công thức: xem văn bản] cũng lớn như IBAT, các khối mô mỡ nâu chính cùng lại sẽ chiếm 60% phản ứng sinh nhiệt của chuột CA. Ngược lại, ngay cả khi cơ bắp của chuột CA sử dụng tất cả O2 trong máu chảy qua nó trong quá trình sinh nhiệt, nó không thể chịu trách nhiệm cho hơn 12% phản ứng sinh nhiệt. Chuột, từ lâu được coi là ví dụ điển hình cho sự tham gia chính của cơ bắp trong nhiệt sinh học không run (NST), giờ đây trở thành một trong số ngày càng nhiều loài cho thấy bằng chứng rõ ràng hoặc gián tiếp rằng NST chủ yếu xảy ra ở BAT. Do đó, điều này là hợp lý khi đề xuất như một nguyên tắc chung rằng BAT là vị trí giải phẫu chính của NST mà nhiều loài động vật có vú nhỏ như: Cá thể CA, trẻ sơ sinh và động vật ngủ đông đều có đặc điểm.