Phân Tích Hồi Tưởng Đa Trung Tâm Về Kết Quả Của Ghép Tế Bào Gốc Huyết Học Allogeneic Thứ Hai Đối Với Các Bệnh Ác Tính Huyết Học Tại Hàn Quốc.

Blood - Tập 114 - Trang 4298 - 2009
Kyoung Ha Kim1, Dong Hwan Dennis Kim2, Jun Ho Jang2, Kihyun Kim3, Chul Won Jung2, Jong-Ho Won1, Joon Ho Moon4, Sang Kyun Sohn4, Yeo-Kyeoung Kim5, Deok-Hwan Yang5, Je-Jung Lee5, Hyeoung-Joon Kim5, Jin Seok Kim6, Yoo Hong Min6, Dae-Young Kim7, Je-Hwan Lee7, Jung-Hee Lee7, Kyoo-Hyung Lee7, Inho Kim8, Sung-Soo Yoon8
1Hematology-Oncology, Soonchunhyang University Hospital, Seoul, South Korea
2Division of Hematology-Oncology, Department of Medicine, Samsung Medical Center, Sungkyunkwan University School of Medicine, Seoul, South Korea
3Division of Hematology–Oncology, Department of Medicine, Samsung Medical Center Sungkyunkwan University School of Medicine, Seoul, South Korea
4Department of Hematology/Oncology, Kyungpook National University Hospital, Daegu, South Korea
5Hematology-Oncology, Chonnam National University Medical School, Gwangju, South Korea
6Internal Medicine, Yonsei University Severance Hospital, Seoul, South Korea
7Hematology, Asan Medical Center, University of Ulsan College of Medicine, Seoul, South Korea
8Department of Internal Medicine, Seoul National University College of Medicine, Seoul, South Korea

Tóm tắt

Tóm tắt Tóm tắt 4298 Giới thiệu Số lượng ghép tế bào gốc tự thân hoặc ghép tế bào gốc allogeneic (HSCT) tại Hàn Quốc tăng lên trong thập kỷ này dẫn đến nhu cầu tăng cao về ghép tế bào gốc huyết học allogeneic thứ hai do sự tái phát của bệnh chính hoặc thất bại của ghép. Kể từ tháng 12 năm 2008, HSCT thứ hai đã được chính phủ Hàn Quốc phê duyệt để được bảo hiểm bởi hệ thống hoàn tiền bảo hiểm y tế quốc gia. Tuy nhiên, chưa có dữ liệu nào có sẵn về kết quả ghép sau HSCT allogeneic thứ hai ở Hàn Quốc. Do đó, nghiên cứu hiện tại cố gắng phân tích kết quả của HSCT allogeneic thứ hai theo cách hồi cứu. Phương pháp Dữ liệu ghép được thu thập hồi cứu từ 8 trung tâm ghép ở Hàn Quốc. Tiêu chí bao gồm như sau. 1) Độ tuổi từ 15 tuổi trở lên, 2) Các bệnh ác tính huyết học không bao gồm suy tủy xương, PRCA, PNH hoặc khối u rắn, 3) Bệnh nhân đã trải qua HSCT allogeneic thứ hai được thực hiện bằng việc ghép máu cuống rốn (CBT). Kết quả 64 bệnh nhân đã được bao gồm với các chẩn đoán như sau: AML (n=28), ALL (n=5), CML (n=3), lymphoma (n=22), myeloma (n=5), và các bệnh khác (n=1). Độ tuổi trung vị là 37 (khoảng 16-65). Ghép lần đầu tiên được thực hiện với người hiến tặng tự thân (59.4%) hoặc allogeneic (40.6%). Những người hiến tặng cho HSCT thứ hai là anh chị em đồng hợp HLA 32(47%), không có liên quan 28(49%), hoặc người hiến tặng haploidentical 2(4%). Chế độ điều trị bao gồm điều trị myeloablative dựa trên TBI 6(9%), myeloablative không TBI 19(30%), hoặc chế độ cường độ giảm 38(60%). Với thời gian theo dõi trung bình là 16 tháng (khoảng 3 đến 93 tháng), 40 bệnh nhân đã chết do độc tố liên quan đến ghép (n=28; 70%), tái phát bệnh chính (n=9; 22.5%) hoặc nguyên nhân khác (n=3; 7.5%). Sau HSCT thứ hai, 56% hồi phục hoàn toàn, 38% hồi phục một phần và 6% không đáp ứng. Tỷ lệ sống sót chung 1 và 2 năm lần lượt là 42% và 29%. Kết luận Các bệnh nhân nhận chế độ điều trị không TBI cho thấy thời gian sống lâu hơn. Công bố: Không có xung đột lợi ích nào liên quan để tuyên bố.

Từ khóa