Nội dung được dịch bởi AI, chỉ mang tính chất tham khảo
Tử vong và Morbidities ở những bệnh nhân sinh tồn 15 năm sau khi ghép tế bào gốc điều trị bệnh ác tính huyết học
Tóm tắt
Mở đầu: Ghép tế bào gốc huyết học (SCT) là một phương pháp điều trị có thể chữa khỏi bệnh lý huyết học. Tái phát, bệnh ác tính thứ phát, các sự kiện tim mạch, nhiễm trùng và bệnh lý liên quan đến GVHD đều là những nguyên nhân đã được xác định gây tử vong trong 10 năm đầu sau khi ghép SCT. Cũng đã mô tả về tình trạng bệnh tật đáng kể, bao gồm các yếu tố nguy cơ tim mạch, bệnh tim mạch, bệnh ác tính, rối loạn nội tiết và vô sinh. Mặc dù nhiều biến chứng này được ghi nhận rõ ràng trong 5-15 năm theo dõi, nhưng ít nghiên cứu đề cập đến tỷ lệ tử vong và bệnh tật ở những bệnh nhân sống sót hơn 15 năm. Phương pháp: Trong nghiên cứu đơn trung tâm này, nguyên nhân tử vong và gánh nặng bệnh tật tích lũy đã được điều tra ở những bệnh nhân sống sót tối thiểu 15 năm sau ghép SCT đồng loại. Tình trạng sống sót được xác thực bằng a) xác nhận sự tham dự gần đây ở phòng khám b) xem xét dữ liệu của Dịch vụ Y tế Quốc gia ghi lại thống kê tử vong đối với những bệnh nhân đã đăng ký với bác sĩ gia đình (GP) tại Vương quốc Anh. Nguyên nhân tử vong được tìm kiếm từ hồ sơ bệnh viện, hồ sơ của GP hoặc giấy chứng tử. Dữ liệu về bệnh ác tính thứ phát (không bao gồm ung thư da không phải hắc tố) và bệnh tim được tài liệu từ hồ sơ của bệnh nhân. Việc sử dụng thuốc ở 15, 20, 25 và 30 năm được thu thập như một chỉ số thay thế cho gánh nặng và bản chất của bệnh tật tích lũy. Kết quả: 178 bệnh nhân được xác định là còn sống và ở Vương quốc Anh 15 năm sau ghép SCT. Thời gian theo dõi trung vị từ thời điểm này là 7.4 năm (khoảng 0-20). Phần lớn (170/178) được điều trị bằng chuẩn bị TBI với liều trung bình là 12Gy (khoảng 10-14.4). Độ tuổi trung bình 15 năm sau ghép SCT là 48 tuổi (khoảng 20-74). Bệnh lý ban đầu là CML ở 152 (85.4%) và bệnh bạch cầu cấp ở 18 (10.1%). Xác suất sống sót ở 20, 25 và 30 năm sau ghép SCT lần lượt là 90.0% (CI 85.4-94.6), 79.5% (72.2-86.7) và 73.5% (63.9-83.1). 32/178 (20%) trong số những người sống sót sau 15 năm đã chết, với thời gian trung bình là 19.1 năm (khoảng 15.1-30.6) sau ghép SCT. Nguyên nhân tử vong có sẵn ở 26/32 (81%) bệnh nhân: mười một trường hợp do nhiễm trùng, mười trường hợp liên quan đến bệnh ác tính thứ phát, 2 trường hợp do tim, 2 hô hấp và 1 trường hợp do viêm tụy cấp. Trong số những ca tử vong do nhiễm trùng, 9 trường hợp do viêm phổi và 8/9 trong số này liên quan đến bệnh phổi nền, suy cơ quan hoặc suy giảm miễn dịch. Không có bệnh nhân nào tử vong do tái phát bệnh lý chính. Bệnh ác tính thứ phát ảnh hưởng đến 35/178 (20%) bệnh nhân với 9 người phát triển trước 15 năm. Xác suất phát triển bệnh ác tính thứ phát ở 15, 20, 25 và 30 năm sau ghép SCT lần lượt là 5.6% (95% CI 2.2-9.0), 17.6% (11.0-23.2), 29.1% (18.9-39.3) và 42.7% (26.1-59.3). Bảy bệnh nhân đã phát triển nhiều bệnh ác tính thứ phát. Trong tổng số 43 bệnh ác tính, các vị trí khối u phổ biến nhất là vú (n=8) và khoang miệng (n=5). Sự phát triển của bệnh ác tính thứ phát liên quan đến việc sống sót giảm đáng kể so với những bệnh nhân không có bệnh ác tính thứ phát (p=0.001). Bệnh tim mạch ảnh hưởng đến 14.7% bệnh nhân với tỷ lệ tích lũy là 5.7% (1.7-9.7), 8.2% (3.2-13.2) và 22.3% (12.1-32.5) vào 15, 20 và 25 năm sau ghép SCT tương ứng. Mười lăm năm sau SCT, việc sử dụng thuốc chống tăng huyết áp, thuốc hạ lipid và (ở phụ nữ) thuốc chống kết tập tiểu cầu cao hơn so với việc sử dụng trong quần thể giới tính tương ứng (Bảng 1). Việc sử dụng những loại thuốc này tăng đáng kể hơn nữa (p<0.05) trong khoảng thời gian từ 15 đến 30 năm lên 38.5%, 48.7% và 15.4% tương ứng. Kết luận: Dữ liệu của chúng tôi chỉ ra rằng cái chết sau 15 năm ở nhóm bệnh nhân này chủ yếu do bệnh ác tính thứ phát hoặc viêm phổi trong bối cảnh các biến chứng sau cấy ghép. Không có ca tử vong nào do tái phát. Gánh nặng bệnh tật tăng đáng kể giữa 15 và 30 năm và điều này cần được theo dõi chuyên môn suốt đời.