Giám sát các chất hoạt động bề mặt anion trong nhà máy xử lý nước thải khu vực phía Tây Algiers bằng phương pháp quang phổ đơn giản

Aida-Cherifa Ahmia1,2, Madjid Idouhar1, Omar Arous3, Karima Sini1, Abdelhak Ferradj1, Amel Tazerouti1
1Laboratory of Applied Organic Chemistry, Faculty of Chemistry, University of Sciences and Technology Houari Boumediene, USTHB, 16111 Algiers, Algeria
2Centre de Développement des Energies Renouvelables, CDER, 16340, Algiers, Algeria
3Laboratory of Hydrometallurgy and Molecular Inorganic Chemistry, Faculty of Chemistry, University of Sciences and Technology Houari Boumediene, USTHB, 16111 Algiers, Algeria

Tóm tắt

Tóm tắt

Việc đánh giá số lượng chất hoạt động bề mặt anion (AS) trong môi trường đã trở thành một chủ đề nghiên cứu được tiến hành rộng rãi trên toàn thế giới. Tuy nhiên, vẫn còn những câu hỏi quan trọng liên quan đến sự hiện diện của chúng trong nước thải ở Algeria được thải ra Biển Địa Trung Hải. Để lần đầu tiên thực hiện việc giám sát AS trong một nhà máy xử lý nước thải (WWTP) nằm cách Algiers khoảng 30 km về phía tây, bốn điểm lấy mẫu đã được chọn để kiểm tra hành vi của AS và điều tra hiệu quả loại bỏ chất hoạt động bề mặt của WWTP: nước thải chưa xử lý (UW), mẫu đã được làm sạch qua xử lý sơ bộ, mẫu đã được xử lý sinh học và nước đã được xử lý. Để hoàn thành công việc này, một phương pháp quang phổ xác định AS đã được phát triển. Dioctyl sulfosuccinate sodium được chọn làm chất tham khảo do có chi phí thấp và độ phản ứng cao so với các AS khác thường được sử dụng bởi phương pháp này. Các ảnh hưởng của độ pH, thời gian chiết xuất và bước rửa đã được nghiên cứu. Thể tích dung môi đã được tối ưu hóa. Đường cong hiệu chuẩn là tuyến tính và thể hiện hệ số tương quan đáng kể. Giới hạn phát hiện thấp nhất được xác định khoảng 10−6 M. Các phương pháp xử lý cơ học và sinh học loại bỏ 53 % AS khỏi nước thải trước khi được thải ra môi trường nước. Nồng độ AS thải ra Biển Địa Trung Hải trong khu vực được nghiên cứu đạt khoảng 10−4 M.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1007/s11743-004-0317-7

10.1007/s11743-010-1193-8

10.1007/s11743-012-1416-2

10.1007/s11743-015-1699-1

10.1007/s11743-010-1210-y

10.1007/s11743-012-1391-7

10.1007/s11743-012-1419-z

Emmanual E, 2005, Fate of glutaraldehyde in hospital wastewater, J Environ Int, 31, 399

10.1007/s11743-012-1335-2

10.1016/j.trac.2008.05.005

10.1016/S0048-9697(01)00873-7

10.1007/s11743-015-1739-x

10.1007/s11743-009-1126-6

10.1007/s11743-008-1063-9

10.1016/j.cej.2013.03.062

Traverso‐Soto JM, 2015, Distribution of anionic and nonionic surfactants in a sewage‐impacted Mediterranean coastal lagoon: inputs and seasonal variations, Sci Tot Environ, 87

10.1007/BF03325941

10.1016/j.jece.2015.11.011

10.1007/s11743-014-1564-7

10.1007/s11743-015-1779-2

10.1081/AL-120016541

Ghiasvand AR, 2009, Sensitive and selective spectrophotometric and a new adsorptive stripping voltammetric determination of sodium dodecyl sulfate in nonaqueous solution after its extraction using toluidine blue, Int J Electrochem Sci, 4, 320, 10.1016/S1452-3981(23)15132-7

10.1007/s11743-015-1783-6

10.1016/j.chroma.2003.10.108

10.1007/s11743-015-1699-1

10.1007/s11743-015-1698-2

10.1007/s11743-008-1079-1

Idouhar M, 2007, Spectrophotometric determination of anionic surfactants in waste and sea waters in Algiers bay, Chim Oggi Today, 2, 62

10.1007/s11743-013-1469-x

10.1007/s11743-015-1763-x

10.1016/j.jece.2015.08.001