Mô hình hóa xác suất phân loại hạch bạch huyết âm tính sai ở bệnh nhân ung thư đại tràng

Wiley - Tập 39 Số 1 - Trang 1-10 - 2019
Carlos Fortea‐Sanchís1, Erica Forcadell-Comes2, David Martínez-Ramos3, Javier Escrig-Sos3
1Division of Colorectal Surgery, Department of Surgery; Consorci Hospitalari Provincial de Castelló; Castelló Spain
2Oropesa Health Center; Carrer de Torreblanca 14 12594 Oropesa Castelló Spain
3Department of Surgery; Hospital General de Castelló; Castelló Spain

Tóm tắt

Tóm tắtNền tảngCác bệnh nhân có số lượng hạch bạch huyết (LNs) được phân tích không đủ có khả năng cao nhận được phân loại hạch không chính xác. Khả năng tính toán xác suất tổng thể của các lỗi liên quan đến hạch bạch huyết không được chẩn đoán ở những bệnh nhân này có thể rất hữu ích để ước lượng tiên lượng thực tế của bệnh nhân và đưa ra các chỉ định có thể cho các điều trị bổ trợ. Mục tiêu của công trình này là thiết lập khả năng dự đoán và khả năng phân biệt tiên lượng của xác suất lỗi cuối cùng (FEP) trong số các bệnh nhân ung thư đại tràng với bệnh lý có khả năng bị phân loại sai là âm tính với hạch bạch huyết.Phương phápĐây là một nghiên cứu hồi cứu đa trung tâm trên quần thể được thực hiện từ tháng 1 năm 2004 đến tháng 12 năm 2007. Chúng tôi đã sử dụng mô hình toán học dựa trên định lý Bayes để tính toán xác suất liên quan đến hạch bạch huyết, dựa trên kết quả kiểm tra FEP. Các đồ thị tổng hợp tích lũy được sử dụng để tính toán các nhóm nguy cơ và tỷ lệ sống được tính toán theo tháng, sử dụng phương pháp Kaplan–Meier.Kết quảTổng cộng 548 bệnh nhân đã được phân tích và phân loại thành ba nhóm nguy cơ dựa trên điểm số FEP của họ: nguy cơ thấp (FEP < 2%), nguy cơ trung bình (FEP 2%–15%), và nguy cơ cao (FEP > 15%). Bệnh nhân có hạch bạch huyết dương tính có tỷ lệ sống sót tổng thể thấp nhất so với ba nhóm nguy cơ. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê đối với nhóm nguy cơ thấp và trung bình (P = 0.002 và P = 0.004, tương ứng), nhưng nhóm nguy cơ cao có đường cong sống sót tương tự như nhóm pN+ (P = 0.505). Về tỷ lệ sống không bệnh, nhóm nguy cơ cao có đường cong tương tự nhóm nguy cơ trung bình cho đến khoảng 60 tháng theo dõi (P = 0.906). Sau 80 tháng theo dõi, đường cong của nhóm nguy cơ cao trùng với đường cong của nhóm pN+ (P = 0.172). Cuối cùng, chúng tôi đã tóm tắt FEP theo số lượng hạch bạch huyết được phân tích và kèm theo một biểu đồ đường viền diễn đạt sự tính toán của nó một cách đồ họa.Kết luậnViệc áp dụng định lý Bayes trong việc tính toán FEP là hữu ích để xác định các phân nhóm nguy cơ trong số các bệnh nhân không có hạch bạch huyết dương tính.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1016/j.ejca.2015.07.024

10.1200/JCO.2006.06.8866

10.1245/ASO.2003.03.058

10.1200/JCO.2003.05.062

10.1002/cncr.25032

10.1016/j.cgh.2006.07.016

10.1007/s00268‐011‐1415‐x

10.1002/1097‐0142(19920515)69:10<2496::AID‐CNCR2820691018>3.0.CO;2‐T

10.1510/icvts.2009.204768

10.1177/0962280215601873

10.1016/j.ciresp.2010.09.002

10.1016/S0009‐739X(06)70913‐7

10.1007/s00268‐009‐0078‐3

10.1016/j.jamcollsurg.2011.11.010

10.1186/1471‐2407‐10‐1

Topham C, 2010, Oxaliplatin, fluorouracil, and leucovorin as adjuvant treatment for colon cancer, N Engl J Med., 23, 43

10.1080/02841860701203537

10.1245/ASO.2003.01.012

10.1002/(SICI)1097‐0142(19960815)78:4<918::AID‐CNCR32>3.0.CO;2‐W

10.2325/jbcs.12.203

10.1016/S0360‐3016(00)00574‐5

10.1245/ASO.2003.03.059

10.1093/annonc/mdt354