Rajendra N Damle1, Carlo Calissano2, Sonal Temburni3, Ryon M. Andersen4, Steven L. Allen5, Jonathan E. Kolitz6, Kanti R. Rai6, Nicholas Chiorazzi6
1Experimental Immunology, The Feinstein Institute for Medical Research, Manhasset, NY, USA
2The Feinstein Institute for Medical Research, North Shore - LIJ Health System, Manhasset, NY, USA
3Experimental Immunology, The Feinstein Institute for Medical Research, North Shore-Long Island Jewish Health System, Manhasset, NY, USA
4Experimental Immunology, The Feinstein Institute for Medical Research, North Shore-Long Island Jewish Health System, Manhasset, NY
5Department of Medicine, North Shore-Long Island Jewish Health System, Lake Success, NY, USA
6Department of Medicine, Hofstra North Shore-LIJ School of Medicine, Hempstead, NY, USA
Tóm tắt
Tóm tắt
Tóm tắt 804
Đặc điểm chính của bệnh bạch cầu lympho mạn tính (CLL) là sự khác biệt rõ rệt giữa và trong các clone, được thể hiện qua sự khác biệt về hình thái và phân tử giữa các nhóm tế bào. Tuy nhiên, định nghĩa về các nhóm tế bào trong một clone có khả năng phân hóa cao hơn và hiểu được khả năng sống sót của những tế bào này khi bị biến đổi vẫn chưa được đề cập. Hầu hết các tế bào CLL đều biểu hiện CXCR4, và sự tương tác với li Freud của nó, CXCL12, thúc đẩy sự sống sót cũng như chỉ đạo sự di chuyển, hai yếu tố chính cho sự duy trì của các phân nhóm đã được biến đổi di truyền. Chúng tôi đã chứng minh rằng các phần clone với mật độ CXCR4 thấp hơn chứa các tế bào với sự biểu diễn cao hơn của các dấu hiệu kích hoạt và đại diện cho các tế bào vừa được chia tách/sinh ra gần đây (“khoang sinh sản”), được chứng minh bằng sự giàu có của các tế bào Ki-67+ và DNA được gán nhãn 2H trong quá trình nghiên cứu in vivo. Nghiên cứu hiện tại được thực hiện để xác định rõ hơn về khoang sinh sản và theo dõi sự phát triển của phần này đang di chuyển nhiều hơn để xác định xem nó có thể là nguồn gốc của sự đa dạng clone trong CLL hay không.
Để theo dõi quá trình tự nhiên của các tế bào hình thành khoang sinh sản, chúng tôi đã phân tích những thay đổi trong 10 trường hợp CLL (5 U-CLL và 5 M-CLL) mà mẫu PBMC được bảo quản lạnh có sẵn trong khoảng thời gian 3–11 năm trong quá trình mắc bệnh. Các mẫu PBMC từ 3 hoặc 4 điểm thời gian liên tiếp cho mỗi trường hợp đã được tiến hành nhuộm miễn dịch huỳnh quang và các phân nhóm CXCR4brCD5dim, CXCR4intCD5int, và CXCR4dimCD5br được phân tích tại mỗi thời điểm cho sự biểu hiện của một loạt các phân tử mặt và phân tử nội bào có ảnh hưởng chức năng: CD11a, CD23, CD27, CD38, Ki67, Mcm6, MDR (Pgp120), Survivin, và hTERT. Phân nhóm CXCR4dimCD5br cho thấy tỷ lệ và mức độ biểu hiện cao nhất của CD11a, CD23, CD27, và CD38 trên tất cả các clone CLL ở tất cả các thời điểm được kiểm tra. Mặc dù Ki-67, Mcm6, MDR (Pgp120), Survivin, và hTERT cũng theo cùng một xu hướng, với diễn biến bệnh, có sự gia tăng tổng thể về mức Survivin, MDR, và Mcm6 đặc biệt trong phân nhóm CXCR4dimCD5br, điều này song song với sự giảm tỷ lệ Bim:Mcl-1. Mức độ protein TERT và hoạt động enzyme telomerase trong các tế bào B tại mỗi thời điểm từ 8 trong tổng số 10 trường hợp luôn có xu hướng cao hơn trong các phân nhóm tế bào B CXCR4dimCD5br so với các phân nhóm tương ứng CXCR4brCD5dim và CXCR4intCD5int. Do đó, các phân nhóm tế bào B CXCR4/CD5 từ 8 trường hợp B-CLL đã được đông lạnh qua thời gian được phân loại theo dòng và sự khác biệt về chiều dài telomere qua thời gian đã được phân tích bằng flow-FISH. Sau khi phân loại, trong khoảng 95% các phép đo, phân nhóm CXCR4dimCD5br có chiều dài telomere lâu hơn một cách đáng kể so với tổng phân nhóm tế bào B và các phân nhóm CXCR4intCD5int, cho thấy hoạt động telomerase tăng cường đã chống lại hiện tượng erode telomere.
Cuối cùng, vì sự kích hoạt các tế bào CLL có thể đạt được thông qua sự kích thích BCR, chúng tôi đã sử dụng phosphoflow để phân tích sự khác biệt trong phản ứng của các phân nhóm CXCR4brCD5dim, CXCR4intCD5int, và CXCR4dimCD5br đối với sự kích thích anti-IgM, được đo bằng mức độ thay đổi trong phốtpho-Akt, Erk, p38MAPK, NFkB, Syk, Btk và STAT5 sau 5 phút tiếp xúc với chất kích thích. Các tế bào CXCR4brCD5dim có mức độ phosphoryl hóa vốn có cao nhất cho tất cả các phân tử ngoại trừ NFkB. Tuy nhiên, sau khi kích thích anti-IgM, sự gia tăng lớn nhất trong mức phốt pho-Akt, Btk, Erk và Syk (>25%) xảy ra trong phân nhóm CXCR4dimCD5br. Đáng chú ý, CXCL12 kích thích mức phốt pho cao nhất (>40%) của NFkB và Erk ở các tế bào CXCR4brCD5dim.
Tổng hợp lại, những phát hiện này chỉ ra rằng phân nhóm CXCR4dimCD5br của các clone CLL gồm những tế bào có mức độ cao nhất của các phân tử tham gia vào sự sinh sản và trường thọ của tế bào, trong khi phân nhóm CXCR4brCD5dim phản ứng tốt nhất với ảnh hưởng bảo vệ và định hướng của CXCL12. Điều này phù hợp với những bất thường về DNA mới có khả năng xuất phát và tồn tại giữa các tế bào đang sinh sản của phân nhóm CXCR4dimCD5br và khi những tế bào này trưởng thành thành kiểu hình CXCR4brCD5dim có cơ hội tốt nhất để quay trở lại mô đặc và tham gia vào nhóm tế bào sống lâu. Chuỗi sự kiện này sẽ dẫn đến lợi thế sống sót cho các thành viên clone đã biến đổi và cho phép tiếp tục sự đa dạng và tiến hóa clone.