Nội dung được dịch bởi AI, chỉ mang tính chất tham khảo
Các ảnh hưởng ức chế của nồng độ tổng và nồng độ hòa tan trong nước của chín kim loại khác nhau đối với hoạt động dehydrogenase của đất loess
Tóm tắt
Nghiên cứu này tập trung vào việc so sánh độc tính vi sinh của chín kim loại, bao gồm As như một phi kim loại và hai loài Cr. Một mẫu đất loess [horizont Ap, đất sét 15.2%, carbon hữu cơ 1.12%, pH(CaCl2) 7.02] đã được bổ sung với 8–12 liều lượng kim loại tăng theo cấp số nhân. Phương pháp thử nghiệm dehydrogenase (phương pháp 2-p-iodophenyl-3-p-nitrophenyl-5-phenyltetrazoliumchloride) đã được kết hợp với các thí nghiệm hấp thụ và hòa tan. Các đường cong liều-phản ứng và đồng vị hấp thụ thu được đã được sử dụng để xác định tổng liều gây ra sự ức chế rõ rệt theo tỷ lệ phần trăm nhất định [tức là liều hiệu quả (ED) gây ra giảm 10–90% hoạt động dehydrogenase (dha)] cũng như các nồng độ dung dịch độc hại tương ứng gây ra cùng mức giảm trong dha (tức là nồng độ hiệu quả; EC10–EC90). Dựa trên tổng liều, độc tính giảm theo thứ tự sau với các giá trị ED50 (mg kg–1) trong ngoặc: Hg (2.0)>Cu (35)>Cr(VI) (71)>Cr(III) (75)>Cd (90)>Ni (100)>Zn (115)>As (168)>Co (582)>Pb (652). Về nồng độ dung dịch, độc tính giảm theo thứ tự (EC50 trong mg l–1): Hg (0.003)>Pb (0.04)>Cu (0.05)>Cd (0.14)>Zn (0.19)>Cr(III) (0.62)>Ni (0.69)>Co (30.6)>As (55.5)>Cr(VI) (78.1). Sự giữ lại kim loại bởi đất có sự khác biệt mạnh mẽ. Pb, Cu và Hg thể hiện hằng số hấp thụ cao nhất và Ni, As và Cr(VI) có hằng số hấp thụ thấp nhất (giá trị Freundlich K: 2455, 724, 348, 93, 13 và 0.06 mg kg–1, tương ứng). Tính hấp thụ của các kim loại và độc tính vi sinh của chúng trong pha nước có sự liên quan đặc trưng: các kim loại có tác động độc hại mạnh trong dung dịch đất được hấp thụ bởi đất ở mức độ cao và ngược lại. Do đó, đặc biệt đối với các kim loại có độc tính vốn dĩ cao, quá trình hấp thụ là một cách hiệu quả để cố định chúng và tạm thời khử độc cho đất.