Các cơn động kinh liên quan đến infliximab: một nghiên cứu trường hợp đầu tiên

Francesco Brigo1, Luigi Giuseppe Bongiovanni1, Roberto Cerini2, Paolo Manganotti1, Monica Storti3, Antonio Fiaschi1
1Department of Neurological, Neuropsychological, Morphological and Movement Sciences, University of Verona, Verona, Italy
2Department of Morphological and Biomedical Sciences, Institute of Radiology, University of Verona, Verona, Italy
3Department of Medicine, Section of Gastroenterology, University of Verona,Verona, Italy

Tóm tắt

Các cơn động kinh xảy ra sau khi điều trị bằng infliximab rất hiếm và cho đến nay, chưa có mô tả chi tiết về những bất thường điện não đồ cùng với các phát hiện hình ảnh học thần kinh liên quan đến các trường hợp có cơn động kinh liên quan đến infliximab. Chúng tôi mô tả một bệnh nhân đã xuất hiện cơn động kinh cấp tính liên quan tạm thời đến việc điều trị bằng infliximab, mà đã biến mất sau khi ngừng thuốc. Chụp MRI cho thấy có tình trạng não bệnh lý chủ yếu ảnh hưởng đến các vùng vỏ não và điện não đồ thể hiện hoạt động cục bộ paroxysmal hoàn toàn biến mất vài ngày sau khi ngừng infliximab. Không có nguyên nhân khả thi nào khác cho các cơn động kinh được xác định. Sự tương quan rõ rệt về thời gian giữa sự khởi phát cơn động kinh và việc điều trị bằng infliximab cũng như sự cải thiện lâm sàng và sự biến mất của hoạt động động kinh cục bộ sau khi ngừng thuốc đã chỉ ra một mối liên hệ rõ ràng giữa các cơn động kinh và liệu pháp infliximab. Việc đồng tồn tại của các phát hiện bệnh lý trên MRI cho thấy các cơn động kinh là thứ phát do encephalopathy. Các nghiên cứu thêm là cần thiết để đánh giá liệu infliximab có tác dụng gây động kinh hay các cơn động kinh do tình trạng não bệnh lý ảnh hưởng đến các vùng vỏ-tủy não.

Từ khóa

#cơn động kinh #infliximab #eletroneurogram #MRI #bệnh não

Tài liệu tham khảo

ACR Hotline. FDA Advisory Committee Reviews Safety of TNF Inhibitors. Atlanta (GA). American College of Rheumatology, 2001. Dicuonzo F, Salvati A, Palma M, et al. Posterior reversible encephalopathy syndrome associated with methotrexate neurotoxicity: conventional magnetic resonance and diffusion-weighted imaging findings. J Child Neurol 2009; 24: 1013–1018. Erbetta A, Salmaggi A, Sghirlanzoni A, et al. Clinical and radiological features of brain neurotoxicity caused by antitumor and immunosuppressant treatments. Neurol Sci 2008; 29: 131–137. Hinchey J, Chaves C, Appignani B, et al. A reversible posterior leukoencephalopathy syndrome. N Engl J Med 1996; 334: 494–500. Khanna D, McMahon M, Furst DE. Safety of tumour necrosis factor-alpha antagonists. Drug Saf 2004; 27: 307–324. Minagar A, DeToledo JC, Falcone S. Cortical-subcortical lesions in “reversible posterior leukoencephalopathy syndrome”. Encephalopathy or seizures? J Neurol 2001; 248: 537–540. Renard D, Westhovens R, Vandenbussche E, Vandenberghe R. Reversible posterior leucoencephalopathy during oral treatment with methotrexate. J Neurol 2004; 251: 226–228. Schiff MH, Burmester GR, Kent JD, et al. Safety analyses of adalimumab (HUMIRA) in global clinical trials and US post-marketing surveillance of patients with rheumatoid arthritis. Ann Rheum Dis 2006; 65: 889–894. Stott VL, Hurrell MA, Anderson TJ. Reversible posterior leukoencephalopathy syndrome: a misnomer reviewed. Intern Med J 2005; 35: 83–90. Zamvar V, Sugarman ID, Tawfik RF, Macmullen-Price J, Puntis JW. Posterior reversible encephalopathy syndrome following infliximab infusion. J Pediatr Gastroenterol Nut 2009; 48: 102–105.