Nâng cao Hiệu Quả Thủ Tục Cách Ly Tĩnh Mạch Phổi Bằng Công Nghệ Cryoballoon Thế Hệ Thứ Hai Mới

Journal of Cardiovascular Electrophysiology - Tập 24 Số 5 - Trang 492-497 - 2013
Alexander Fürnkranz1, Stefano Bordignon1, Boris Schmidt1, Melanie Gunawardene1, Britta Schulte‐Hahn1, VERENA URBAN1, Frank Bode2, Bernd Nowak1, Julian Chun1
1Cardioangiologisches Centrum Bethanien, Medizinische Klinik III, Markus Krankenhaus Frankfurt am Maim
2Universitätsklinikum Medizinische Klinik II, Lübeck, Germany

Tóm tắt

Công nghệ cryoballoon có khả năng cô lập một tĩnh mạch phổi (PV) chỉ với một lần áp dụng năng lượng. Tuy nhiên, việc sử dụng cryoballoon thế hệ đầu tiên (CB-1G) thường cần đến việc đóng băng lặp lại hoặc thêm ablation điểm. Cryoballoon thế hệ thứ hai (CB-2G) mới có vùng làm mát tối ưu rộng hơn, bao gồm toàn bộ bán cầu trước. Mục tiêu của nghiên cứu này là điều tra tác động của thiết kế mới này đến hiệu quả thủ tục cách ly PV bằng cryoballoon (CB-PVI). Thí nghiệm CB-PVI một lần qua vách ngăn đã được thực hiện trên 60 bệnh nhân liên tiếp (CB-1G, 28 mm, thời gian áp dụng 300 giây: 30 bệnh nhân; CB-2G, 28 mm, thời gian áp dụng 240 giây: 30 bệnh nhân). So với CB-1G, việc sử dụng CB-2G đã làm tăng tỷ lệ PVI một lần từ 51% lên 84% (P < 0.001) và giảm thời gian thủ tục (128 ± 27 so với 98 ± 30 phút; P < 0.001), và thời gian phơi nhiễm fluoroscopy (19.5 ± 7.4 so với 13.4 ± 5.3 phút; P = 0.001). PVI hiệu quả bằng CB-2G có thể thực hiện với tỷ lệ hình ảnh hóa PVI thời gian thực tăng lên (49% so với 76%; P < 0.001). Thời gian đến PVI (TPVI) ngắn hơn ở nhóm CB-2G (79 ± 60 so với 52 ± 36 giây; P = 0.049). Các biến chứng liên quan đến thủ thuật xảy ra ở 2 bệnh nhân trong nhóm CB-1G và 1 bệnh nhân trong nhóm CB-2G. CB-2G đã cải thiện đáng kể hiệu quả thủ tục so với CB-1G và cung cấp các phép đo TPVI đáng tin cậy. TPVI có thể được sử dụng để điều chỉnh thời gian và số lần áp dụng một cách cá nhân trong các nghiên cứu tương lai. Các kết luận cuối cùng về hồ sơ an toàn của CB-2G cần thêm nghiên cứu.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1093/eurheartj/ehm227

10.1093/eurheartj/ehn570

10.1016/j.jacc.2008.04.021

10.1111/j.1540–8167.2012.12003.x

10.1016/j.hrthm.2009.10.038

10.1111/j.1540-8167.2009.01703.x

10.1016/j.hrthm.2009.11.021

10.1016/j.jacc.2005.07.046

10.1093/europace/eus041

10.1111/j.1540-8159.2012.03475.x

10.1111/j.1540-8167.2012.02315.x

10.1161/CIRCEP.112.975516

10.1111/j.1540-8167.2009.01549.x

10.1111/j.1540-8159.2012.03436.x

10.1136/hrt.2009.192419

10.1016/j.hrthm.2011.03.050

10.1046/j.1540-8167.2005.40759.x

10.1111/j.1540-8159.2012.03470.x

10.1111/j.1399-6576.1997.tb04871.x

Floriot CP, 1989, Transitory phrenic nerve palsy after subclavian vein puncture, Crit Care Med, 17, 1366, 10.1097/00003246-198912000-00033

10.1016/j.hrthm.2009.03.051

10.1111/j.1540-8167.2010.01739.x

10.1111/j.1540-8167.2010.01796.x