Tác động của các biến chứng thần kinh và y tế đến kết quả sau 3 tháng ở bệnh nhân đột quỵ thiếu máu cục bộ cấp tính

European Journal of Neurology - Tập 15 Số 12 - Trang 1324-1331 - 2008
Keun‐Sik Hong1, D.‐W. Kang2, J.‐S. Koo3, K.‐H. Yu4, Moon‐Ku Han5, Young-Moon Cho1, J.‐M. Park3, Hee‐Joon Bae5, B.‐C. Lee4
1Department of Neurology, Clinical Research Center, Ilsan Paik Hospital, Inje University, Goyang, Korea
2Department of Neurology, Asan Medical Center, University of Ulsan College of Medicine, Seoul, Korea
3Department of Neurology, Eulji General Hospital, Eulji University School of Medicine, Seoul, Korea
4Department of Neurology, Hallym University Sacred Heart Hospital, Anyang, Korea
5Department of Neurology, Seoul National University Bundang Hospital, Seongnam, Korea

Tóm tắt

Mục tiêu:  Đánh giá tác động của các biến chứng thần kinh và y tế đến kết quả sau 3 tháng ở những bệnh nhân đột quỵ thiếu máu cục bộ cấp tính.

Phương pháp:  Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu theo dõi các biến chứng ở tất cả bệnh nhân đột quỵ thiếu máu cục bộ cấp tính liên tiếp được nhập viện trong vòng 7 ngày kể từ khi khởi phát tại bốn bệnh viện đại học trong suốt một năm. Dữ liệu cơ bản và kết quả sau 3 tháng đã được thu thập. Kết quả xấu được định nghĩa là điểm trên Thang điểm Rankin sửa đổi từ 3 đến 6.

Kết quả:  Tổng cộng có 1.254 bệnh nhân được tuyển chọn: 264 (21.1%) và 303 (24.2%) bệnh nhân có một hoặc nhiều biến chứng thần kinh và y tế, tương ứng. Các biến chứng phổ biến nhất là sự tiến triển của đột quỵ thiếu máu cục bộ (17.1%) và viêm phổi (12.0%). Trong số 1.233 bệnh nhân có kết quả sau 3 tháng, 34.9% có kết quả xấu. Phân tích đa biến cho thấy rằng các biến chứng thần kinh (tỷ lệ tỷ lệ, khoảng tin cậy 95%; 5.47, 3.63–8.24) và y tế (3.47, 2.30–5.23) là các yếu tố tiên đoán độc lập của kết quả xấu. Đối với các biến chứng cá nhân, sự tiến triển của đột quỵ thiếu máu cục bộ (7.48, 4.73–11.84), sự chuyển hóa xuất huyết có triệu chứng (3.57, 1.33–9.54), viêm phổi (4.44, 2.20–8.99), xuất huyết ngoài sọ (4.45, 1.88–10.53), và nhiễm trùng đường tiết niệu (2.72, 1.32–5.60) có liên quan độc lập với kết quả xấu.

Kết luận:  Kết quả sau khi bị đột quỵ thiếu máu cục bộ chịu ảnh hưởng tiêu cực từ các biến chứng, đặc biệt là sự tiến triển của đột quỵ thiếu máu cục bộ, sự chuyển hóa xuất huyết có triệu chứng, viêm phổi, xuất huyết ngoài sọ, và nhiễm trùng đường tiết niệu. Các can thiệp nhằm ngăn ngừa những biến chứng này có thể cải thiện kết quả đột quỵ thiếu máu cục bộ.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1161/01.STR.27.3.415

10.1161/01.STR.25.2.358

10.1161/01.STR.29.2.447

10.1161/01.STR.26.6.990

10.1161/01.STR.31.6.1223

10.1159/000065512

10.1161/01.STR.0000259659.91505.40

10.1161/01.STR.32.2.523

10.1161/01.STR.0000185721.73445.fd

10.1007/s00415-002-0755-8

10.1001/archneur.55.4.481

10.1212/WNL.40.12.1865

10.1159/000076161

10.1016/S0140-6736(94)92757-X

10.1001/archneur.1995.00540310040014

10.1161/01.STR.31.9.2049

10.1016/S0022-510X(02)00160-0

10.1212/01.WNL.0000046586.38284.60

10.1161/01.STR.0000063373.70993.CD

10.1161/01.STR.23.5.632

10.1161/01.STR.32.3.661

10.1161/01.STR.0000034396.68980.39

10.1161/01.STR.0000048217.44714.02

10.1159/000077012

10.1002/ana.10678

10.1161/01.STR.0000136554.03470.9d

10.1161/01.STR.0000177529.86868.8d

White RH, 2005, Effect of ethnicity and gender on the incidence of venous thromboembolism in a diverse population in California in 1996, Thrombosis and Haemostasis, 93, 298, 10.1160/TH04-08-0506

10.1016/j.amjmed.2003.11.020

10.1001/archinte.164.16.1761

10.1016/j.amepre.2006.08.019