Tỷ lệ giới tính của bệnh Dupuytren ở quần thể hiện đại của Hoa Kỳ
Tóm tắt
Các nghiên cứu dịch tễ học được thực hiện chủ yếu ở Bắc Âu và Úc đã cho thấy bệnh Dupuytren ít phổ biến hơn ở phụ nữ, với tỷ lệ giới tính tổng thể được báo cáo từ 3:1 đến 9,5:1. Dữ liệu dịch tễ học từ các quốc gia khác không thể được suy rộng ra cho quần thể hiện đại của Hoa Kỳ do sự khác biệt về di truyền và môi trường giữa các quần thể. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định tỷ lệ giới tính trong bệnh Dupuytren ở khu vực Boston, MA. Chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu hồi cứu trên các bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh Dupuytren tại hai bệnh viện học thuật lớn ở Boston, MA từ tháng 1 năm 1995 đến tháng 7 năm 2006. Để giảm thiểu sự biến đổi do chẩn đoán lâm sàng, chúng tôi cũng đã sử dụng hồ sơ thanh toán nội bộ để xác định một tập hợp con các bệnh nhân đã thực hiện phẫu thuật cắt tổ chức (fasciectomy) do bệnh Dupuytren trong thời gian này. Tổng cộng, 1.815 bệnh nhân (1.150 nam, 665 nữ) đã được xác định tại các cơ sở của chúng tôi với chẩn đoán lâm sàng về bệnh Dupuytren, tạo ra tỷ lệ nam nữ tổng thể là 1,7:1. Trong số đó, 234 bệnh nhân (176 nam, 58 nữ) đã trải qua phẫu thuật cắt tổ chức do hai tác giả chính thực hiện, dẫn đến tỷ lệ nam nữ là 3,0:1. Tỷ lệ nam nữ đối với bệnh nhân dưới 54 tuổi là 4,0:1, và tỷ lệ này gần như đạt 1:1 khi độ tuổi tăng lên. Tỷ lệ nam nữ quan sát được trong quần thể bệnh nhân của chúng tôi thấp hơn so với những gì đã được báo cáo trong tài liệu trước đây, đặc biệt là đối với bệnh nhân dưới 54 tuổi. Nghiên cứu này cho thấy rằng các nghiên cứu dịch tễ học quy mô lớn là cần thiết để báo cáo một cách chính xác về bệnh Dupuytren trong quần thể hiện đại của Hoa Kỳ.
Từ khóa
Tài liệu tham khảo
McFarlane RM, 1990, Dupuytren's disease, 201
McFarlane RM, 1985, Dupuytren's disease, 123
Mikkelsen OA, 1972, Acta Chir Scand, 138, 695